Tam Quốc Thiết Kỵ Định Giang Sơn
Chương 29: Thiết kỵ
Nghe Điển Vi nói, Lưu Bằng biết là hắn muốn nhắc khéo mình nên hồi quân về Quảng Dương, lại sợ mình tức giận với hắn, trước không gọi tên hắn được nêu ý kiến, mới quanh co lòng vòng nói ra.
"Thúc Chí, truyền lệnh xuống, quân ta lập tức xuất phát, hồi quân về Quảng Dương." Trần Đáo lĩnh mệnh mà đi. Lưu Bằng ngồi ở chủ vị lại nói: "Văn Hòa tiên sinh, hôm qua giết địch có công, ta nhớ được Chu Hãn, còn có binh lính đã giết Hoàng Cân Tặc, tất cả đều dựa theo phần thưởng quy định ta nói khi xuất chinh. Việc này giao cho ngươi làm, không được có sai sót.”
"Ác Lai, ngươi dọc theo đường đi bảo hộ tiền tài, phải cực kỳ cẩn thận, nếu kẻ nào không có mắt trực tiếp lại gần chém chết không tha, không được có sai phạm."
Tháng 5 năm Trung Bình, Lưu Bằng dẫn một vạn đại quân, xuất quân từ Quảng Dương, chạy tới Thượng cốc trợ giúp, không thành mà phải hồi quân trở về, ba ngày sau, một vạn đại quân lại trở lại Quảng Dương, Lưu Bằng mang theo Điển Vi trở lại phủ Thái Thú, triệu Vương Thành phân phó nói: "Thừa Thiên, ngươi phái người đi tìm người dẫn đường, chuẩn bị mua năm ngàn con hảo chiến mã, việc này tất trong vòng một tháng phải làm thỏa đáng, cần tiền tài có thể tìm Văn Hòa tiên sinh. ”.
Vương Thành thấy công tử lên tiếng, vội vàng nói: "Công tử yên tâm, tại hạ nhất định sẽ làm tốt. ”.
Lưu Bằng đối với Vương Thành vẫn rất yên tâm, nói: "Mặt khác lần này ta xuất quân viện trợ Thượng Cốc, đáng tiếc Thượng Cốc bị phá, buộc phải hồi quân thủ vệ Quảng Dương, trên đường chém giết hơn ‘ba ngàn quân’ khăn vàng, trảm tặc quân đại tướng Đỗ Nghĩa, ngươi phái người đi Lạc Dương đưa ba ngàn kim biếu cho Trương Nhượng, mục đích là thông cáo nguyên xi lời ta vừa nói cho hắn. Nói ta nguyện vì giang sơn xã tắc Đại Hán, đảm nhiệm chức An Bắc tướng quân, mời hắn hướng bệ hạ đưa ra mỹ ngôn!
An Bắc tướng quân đảm nhiệm vai trò chinh phạt hoặc trấn thủ. Đa phần là phụ quan hàm, cũng không phải là chức vụ thực chất thực quyền. Lưu Bằng chính là muốn một chức quan hư vô, để chiêu binh mãi mã, chinh phạt Hoàng Cân Tặc, thành lập uy vọng cùng danh tiếng, chỉ cần có hai thứ này, đại tướng, đại hiền trong thiên hạ mới dễ mời chào.
Vương Thành ghi nhớ phân phó của Lưu Bằng trong lòng, xoay người rời đi.
Đuổi Vương Thành đi, Lưu Bằng ngồi trên ghế trong phòng, nửa ngày không nói lời nào, đại não vẫn luôn suy tư làm thế nào mới có thể thành lập một đội thiết kỵ cường đại, Thiết Phù Đồ của người Kim trong lịch sử kiếp trước, Liên Hoàn Mã lúc Lương Sơn Hô Diên Chước, Thiết kỵ Liêu Đông cuối thời minh, đều là sát khí xung phong hãm trận.
Thiết Phù Đồ thuộc về đại tướng Hoàn Nhan Ngột Thuật của Kim quốc, là một cách gọi của người Nam Tống đối với "siêu cấp trọng trang kỵ binh" của người Kim, nhưng cũng có người cho rằng tất cả kỵ binh nhìn như thiết tháp đều có thể xưng hô như vậy. Trong đội quân Thiết Phù Đồ, người và ngựa toàn bộ trang bị trọng giáp, người và ngựa chỉ để lộ ra hai con mắt, các bộ vị còn lại được trọng giáp bao bọc, trong chiến dịch lớn, được dùng làm lợi khí xung phong hãm trận. Bất quá Thiết Phù Đồ cũng có nhược điểm, trọng giáp của người và ngựa rất nặng không phải chiến mã bình thường có khả năng chống đỡ.
Liên Hoàn Mã thì dùng xích sắt nối ngựa lại, hơn mười con ngựa khỏe khoắn sẽ tông thẳng vào quân địch chết như ngả rạ, rải thi thể khắp nơi. Tướng lĩnh nhà Tống Hô Diên Chước từng dùng Liên Hoàn Mã, lập chiến công ở biên quan, là một loại chiến kỵ mà Lưu Bằng vô cùng sùng bái.
Thiết kỵ Liêu Đông thời nhà Minh là tinh binh hiếm hoi trong lịch sử Trung Quốc. Thiết kỵ Liêu Đông chỉ đội quân dưới trướng phụ tử Lý Thành Lương của Liêu Đông, một nhà họ Lý đều am hiểu dùng kỵ binh đột kích, đội quân tinh nhuệ nhất dưới trướng là đội kỵ binh gia tướng Lý gia, nhân số ước chừng ba ngàn, trang bị tinh xảo, được huấn luyện bài bản, trong chiến dịch chinh phục Thổ Man Bộ Mông Cổ và Vạn Lịch Triều Tiên chiến đấu vô địch không đối thủ, còn nhiều lần bình định phản loạn Nữ Chân, Mông Cổ. Phản loạn Nữ Chân có thủ lĩnh Vương Huyên và phụ thân, tổ tiên của Dục Vọng Cáp Xích đều chết dưới đao của tinh kỵ Liêu Đông.
Chải chuốt suy nghĩ một chút, Lưu Bằng mới đi tới sân của Lưu Thành, Lưu Bằng vào cửa hướng Lưu Thành hành lễ nói: "Phụ thân, giặc phỉ đang làm loạn, dân chúng Đại Hán khổ không thể tả, ít ngày trước nhi dẫn quân đi giải vây Thượng Cốc, chưa tới thành Thượng Cốc, đã nghe được tin Thượng Cốc bị tặc quân đại phá, tặc quân tiến vào thành thiêu sát cướp bóc, tự ý làm bậy, nhi đau đớn dằn vặt suy nghĩ, quyết định thành lập đội quân thiết kỵ bắc địa, dùng để quét sạch Hoàng Cân Tặc, thỉnh phụ thân ân chuẩn. ”.
Lưu Thành thấy nhi tử có thiện tâm như vậy, nào có đạo lý không đồng ý, hòa ái nói: "Con ta có quyết tâm như vậy, phụ thân đương nhiên ủng hộ, há có đạo lý không đồng ý. Trong nhất mạch này của ta, tài vật tổ tiên lưu lại mặc dù không nhiều lắm, nhưng cũng đủ để con ta thành lập một đội thiết kỵ, ngươi đi tìm Vương quản gia chi hai vạn kim, dùng để chế tạo chiến giáp, mua ngựa. ”.
Hai vạn kim của Lưu Thành hứa cho có thể xem như giải quyết vấn đề cấp bách, Lưu Bằng kích động nói: "Nhi tạ ơn phụ thân, kính xin phụ thân tuyên bố một bảng văn thông cáo chiêu nạp lưu dân, mục đích để thu nhận dân chúng không có chỗ ở, phân chia đất đai vô chủ cho bọn họ canh tác, quan phủ ban đầu cung cấp lương thực và dụng cụ cày đất.”
"Con ta nghĩ rất giống ta, vi phụ đã cho người đi làm, cũng đã mua xong trâu cầy, trồng mạ non, chỉ chờ lưu dân đến đây." Lưu Thành tự hào cười nói.
- Giải thích về một số thông tin ở đời thật như sau:
1. Thiết Phù Đồ hay Thiết Phủ Đồ là một đơn vị huyền thoại, những kị binh được trang bị khôi giáp nặng nề nhất trong lịch sử Trung Hoa. Được biết dưới cái tên “Thiết Phù Đồ”, đây là một công cụ đắc lực của Kim quốc, tham gia hàng chục trận chiến quan trọng, góp phần tạo dựng nên những thành công vang dội của người Nữ Chân khắp vùng phía Bắc Trung Quốc trong thế kỉ thứ 12.
Nhà Kim là một vương quốc của người Nữ Chân, được hình thành trên địa bàn tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang hiện nay ở phía Đông Bắc Trung Quốc. A Cốt Đả thủ lĩnh của bộ tộc Hoàn Nhan là người có công kiến quốc. Theo truyền thuyết, tên của vương quốc “Kim” bắt nguồn từ tên dòng sông nơi bộ tộc của A Cốt Đả sinh sống, sông Anchuhu trong tiếng Nữ Chân có nghĩa là vàng. Cũng có thể tên này được đặt để đối kháng lại với vương quốc thù địch với họ, nhà Liêu, như A Cốt Đả khi lên ngôi đã nói: “Liêu lấy sắt tinh luyện làm hiệu, nhằm thể hiện sự vững mạnh. Sắt tinh luyện tuy cứng song cuối cùng cũng bị “biến hoại”, chỉ có ‘kim’ là “bất biến bất hoại”. Liêu là một quốc gia của người Khiết Đan, kẻ thù đầu tiên của nước Kim, có vị trí tại vùng phía Bắc, Đông Bắc Trung Hoa và Mông Cổ hiện đại.
Vào mùa xuân năm 1114, A Cốt Đả đã thống nhất được các bộ lạc Nữ Chân, lúc này đang bị người Khiết Đan tức là nhà Liêu nô dịch. Ông đã phát động một cuộc chiến chống Liêu. Năm 1115, ông lên ngôi Hoàng đế, thành lập nhà Kim, bắt đầu xuất binh chinh phạt Liêu.
Năm 1121, người Nữ Chân đồng ý tham gia liên minh trên biển gọi là Hải thượng chi minh với nhà Tống để cùng nhau diệt Liêu. Trong khi quân Tống thua trận, quân Kim giành được hết chiến thắng này đến chiến thắng khác và buộc tàn quân Liêu phải chạy sang phía Tây. Trong những trận chiến với Liêu, chiến thắng của quân Kim đến từ việc triển khai một cách khéo léo những đội thiết kị thiện chiến của họ.
Năm 1125, sau cái chết của A Cốt Đả, nhà Kim đã phá vỡ liên minh với nhà Tống và bắt đầu Nam tiến. Khi giao chiến với quân Tống, họ đã gặp khó khăn khi đụng phải những khối bộ binh vững chắc với hỏa khí. Tứ hoàng tử Ngột Truật đã tập hợp những kị sĩ giỏi và giàu kinh nghiệm nhất thành một đội quân, gọi là “Thiết Phủ Đồ”.
Sự hưng khởi của nước Kim là một kì tích. Dưới sự lãnh đạo của A Cốt Đả và những võ công của Hoàng tử Ngột Truật, xuất phát từ những vùng đồng cỏ khô cằn quanh sông Anchuhu, họ chỉ mất 10 năm để chinh phạt toàn bộ nước Liêu và mất hơn 5 năm để tràn ngập miền Bắc Trung Quốc, tấn công kinh thành và bắt hai vua Tống làm tù binh. Từ những người lang thang, trong vòng chưa đến 20 năm, họ đã tạo dựng được một vương quốc rộng lớn hơn cả đế quốc Frankish của Charlemagne hay nước Pháp đệ nhất dưới thời Napoleon.
Nước Kim năm 1142, Ngột Truật muốn sử dụng đội kị binh này như một đơn vị tiên phong, luôn đi đầu trong các trận chiến, tạo ra những cơn chấn động cho quân địch bằng những cuộc càn quét khủng khiếp hay xuống ngựa chiến đấu như những người bộ binh nặng.
Phong cách chiến đấu của đơn vị này có thể đã chịu ảnh hưởng từ những kị binh “Thiết Dao Tử” của đế quốc Tây Hạ. Về “Thiết Dao Tử”, trong Tống sử có miêu tả về đơn vị này như sau: “những kị sĩ có thể di chuyển hàng trăm đến hàng nghìn dặm một ngày trên mình ngựa, họ là những kị sĩ xuất sắc, tấn công mạnh mẽ như sấm sét, di chuyển linh hoạt như mây bay. Khi gặp quân địch, họ tấn công phủ đầu bằng những đợt càn quét mạnh mẽ và bất ngờ”. Những kị binh này là một đội quân tinh nhuệ của hoàng gia Tây Hạ, họ tham gia rất nhiều chiến dịch. Chỉ được bọc giáp ở mức độ trung bình, ưu thế của họ đến từ độ dẻo dai và nhanh nhẹn. Những cây thương cũng có thể gắn chặt lên mình ngựa để phòng trường hợp người kị sĩ hi sinh, con ngựa vẫn có thể tự hoàn thành nhiệm vụ.
Khác với “Thiết Dao Tử”, “Thiết Phủ Đồ” là những kị sĩ được trang bị những bộ giáp nặng nhất ở vùng Viễn Đông. Chúng ta sẽ khảo sát nhân lực, trang thiết bị và phong cách của đơn vị này một cách chi tiết ở bên dưới.
- Về Nhân lực.
Khoảng ba triệu người, một nửa trong số đó là người Nữ Chân đã tiến xuống miền Bắc Trung Quốc trong hơn hai thập kỉ. Số người Nữ Chân này đã thiết lập được sự cai trị lên 30 triệu người Hán bản địa. Sau khi chiếm được miền Bắc Trung Quốc, nhà Kim bị Hán hóa, họ nhanh chóng tiếp thu rất nhiều nét văn hóa Trung Quốc như trang phục, bộ máy quan liêu, Nho giáo. Nhiều người Nữ Chân kết hôn với phụ nữ người Hán, hoặc nô dịch họ làm thê thiếp, nô tỳ. Các quý tộc Nữ Chân rất hứng thú với việc nghiên cứu kinh điển Trung Hoa và làm thơ kiểu Hán. Nhưng họ vẫn giữ vị trí độc tôn của những quý tộc Nữ Chân trong chính quyền.
Theo Kim lỗ đồ kinh, tức là ghi chép của một tù binh Kim, Kim Ngột Truật đích thân đem ba ngàn nha binh đến tiếp ứng, tất cả nha binh toàn thân bọc giáp, giặc gọi là Thiết Phủ Đồ, cũng gọi là Xoa Thiên Hộ, cái tên Xoa Thiên Hộ này là để chỉ thân quân thị vệ.
Nhìn chung chính quyền và quân đội hoàn toàn do người Nữ Chân nắm giữ. Theo những ghi chép của Uông Nhược Hải, một người làm việc trong triều Tống đã quan sát được những cuộc chiến giữa Kim và Tống thì Thiết Phủ Đồ là một đơn vị dành riêng cho con trai của các gia đình quý tộc Nữ Chân danh giá. Lòng trung thành của họ được đảm bảo một cách vững chắc. Các vị trí trong quân đội của người Nữ Chân được thế tập từ đời này sang đời khác và họ còn được ban phát đất đai. Những gia đình Nữ Chân được tổ chức theo chế độ Mãnh An Mưu Khắc, 100 hộ hợp lại thành 1 Mưu Khắc, 10 Mưu Khắc thành 1 Mãnh An.
Kị binh là lực lượng chuyên nghiệp duy nhất trong quân đội nước Kim. Họ được trả lương, trang thiết bị được nhà nước chu cấp. Trong khi đó, kị binh của người Hán đa phần là những đơn vị được trưng tập.
- Về Trang bị.
Các Thiết Phủ Đồ được bọc giáp toàn thân, chỉ để lộ hai mắt và bàn tay, gần giống với các kỵ binh Ba Tư thế kỉ thứ 4 đến thế kỉ thứ 7. Một số sử gia dùng thuật ngữ “cataphracts” hay “clibanarii” hoặc Hi-La để chỉ những kị binh được bọc giáp kín người như vậy. Những con ngựa cũng được bọc giáp. Họ sử dụng giáp lamellar và giáp bông dày. Một kị sĩ sẽ được cấp cho hai con ngựa để đảm bảo được độ cơ động và khả năng tác chiến trong mọi tình huống.
Vũ khí của họ cũng rất đa dạng. Ngoài một cây thương, họ thường có một chiếc chùy nhỏ, cung tên và đao. Để thực hiện được những nhiệm vụ khác tùy yêu cầu của tình hình thực tế, họ được trang bị cả thang dây, xẻng và rìu.
Họ thường được triển khai với số lượng lớn, 3000 đến 6000 người mỗi lần ra quân. Những kị sĩ ở châu Âu thời trung đại còn xa mới đạt đến con số này, những đợt tấn công của họ trở nên chết chóc hơn bao giờ hết.
Quy mô quân đội của các quốc gia phương Đông vượt xa châu Âu rất nhiều. Lưu ý rằng đây chỉ là đơn vị tiên phong của một đoàn quân khổng lồ được hỗ trợ bởi 15.000 kị binh khác các loại và 40.000 đến 80.000 bộ binh được trang bị tốt. Quân số của nước Kim đã có thể đạt đến con số nửa triệu người, vẫn còn rất khiêm tốn nếu so với nhà Hán hay nhà Đường.
- Về Chức năng.
“Thiết Phủ Đồ” được sử dụng như một mũi dùi tiên phong lao thẳng vào đội hình quân địch. Triệu Ngạn Vệ, một người Tống đã ghi chép lại về chiến thuật của họ: “Những kị sĩ xếp thành hình tam giác hướng về phía trước, họ lao về phía kẻ thù nhanh hết mức có thể rồi sau đó tỏa ra, chạy quanh bao vây quân địch, chờ cơ hội để tấn công thêm lần nữa, nếu tình hình yêu cầu, họ có thể xuống ngựa chiến đấu như những người lính bộ binh”.
Trong một số ghi chép khác, quân Kim cũng sử dụng Quải Tử Mã, ba kị sĩ sẽ được liên kết với nhau bằng một sợi dây da, tàn sát bất kì tên bộ binh xấu số nào bị kẹt ở giữa.
Có nhiều tranh cãi xung quanh từ này, có ý kiến cho rằng “Quải tử mã” là một đơn vị riêng, tách biệt với “Thiết Phủ Đồ”. Có ý kiến lại cho rằng “Quải tử mã” thật ra là lực lượng 10.000 kỵ binh chạy ở hai cánh trợ chiến cho những đợt tấn công của “Thiết Phủ Đồ”.
2. Liên Hoàn Mã hay Liên Hoàn Giáp Mã là đội quân kỵ với khoảng ba chục con ngựa dàn hàng ngang, cả người lẫn ngựa đều mặc giáp dày kín đáo như tường thành. Tất cả đều được kết nối liền lạc thành một khối, chỉ hở bốn chân ngựa, vừa thường dài vừa cung tên đều lao lên cùng lúc, hết hàng này tới hàng khác. Cung tên không động đến được, quả thật lợi hại. Quân Lương Sơn Bạc bị thua to. Thủ lĩnh Tống Giang phải treo miễn chiến bài. Có người hiến kế mời tướng Từ Ninh, ngoại hiệu Kim Sang Ban, sở trường về đánh câu liêm có thể phá được Liên Hoàn Giáp Mã.
Mãi về sau này, quân sư Ngô Dụng của Lương Sơn Bạc bày kế đưa Từ Ninh về đầu Lương Sơn. Từ Ninh tuyển chọn 500 quân để tập luyện đánh câu liêm. Cứ 10 lính đánh câu liêm, xen lẫn với 10 lính đánh gậy móc. Trong khi đội câu liêm phá ngựa liên hoàn thì quân gậy móc bắt sống người. Quân Liên Hoàn Giáp Mã đã bị dụ vào rừng lau và trúng phải đội quân câu liêm mai phục móc vào chân ngựa khiến cả đám bị gục ngã và bị bắt sống toàn bộ. Hô Diên Chước đại bại, không còn đường về, về sau cũng đành phải quy hàng Lương Sơn Bạc.
3. Thiết kỵ Liêu Đông nhà họ Lý là một đội gia binh. Gia binh còn có thể gọi là tư binh, là những binh sĩ chỉ phục vụ và tuân lệnh cấp trên trực tiếp của họ. Sự tồn tại của lực lượng thân binh thách thức quan điểm cơ bản của quân đội nhà Minh vì nó trái với tư tưởng quân đội phải trung thành tuyệt đối với hoàng đế và triều đình. Thiết kỵ Liêu Đông tuy là tinh kỵ nhưng tính cách phóng túng, không khác du côn là bao. Hệ thống quân sự và chỉ huy quân sự tại Liêu Đông theo hình thức thế tập, với mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa binh sĩ với chỉ huy. Vì vậy khi bất đồng với triều đình trung ương thì các thế lực này dễ dàng đào ngũ gia nhập kẻ địch, điều này giải thích cho nguyên nhân mà Liêu Đông dễ dàng rơi vào tay Hậu Kim, khi mà các thế lực quân sự Liêu Đông quyết định ngả về các bộ lạc Nữ Chân thay vì trung thành với triều đình.
Nhà họ Lý có nhiều tướng tài. Trong 30 năm trấn thủ Liêu Đông đã 10 lần dâng tấu báo thắng lớn. Song do thanh thế ngày càng lớn nên trở thành kiêu căng, xa xỉ vô độ. Lý Thành Lương được sử sách ghi chép là "anh nghị kiêu kiện, hữu đại tướng tài". Nghĩa là "tài năng, quyết chí, mạnh mẽ và cường tráng; là một đại tướng tài giỏi".
Lý Thành Lương có nhiều người con trai, trưởng tử Lý Như Tùng từng đánh bại tướng Nhật Bản Konishi Yukinaga hay còn gọi là Tiểu Tây Hành Trường tại Triều Tiên. Ngoài ra còn có Lý Như Bá, Lý Như Trinh, Lý Như Chương, Lý Như Mai, con cháu sau này là Lý Như Tử, Lý Như Ngô, Lý Như Quế, Lý Như Nam, tất cả đều kiêu dũng thiện chiến, có được uy phong của cha anh, đương thời gọi là "Lý gia cửu hổ tướng".
Hết giải thích.
Bạn cần đăng nhập để bình luận