Hàm Tương

Chương 6


“Có phải chàng nên giải thích tình hình hiện tại không? Chàng không phải đi… làm thanh quan sao, sao lại bị thương nặng như vậy?”
Hắn sững người, vẻ mặt khó hiểu: “Ta nói là đi làm thanh quan bao giờ?”
“Vậy tại sao trên người chàng lại có mùi son phấn nồng nặc thế?” Ta thẳng thắn đáp.
Hắn nhìn ta rất lâu, trong mắt ánh lên vẻ tươi cười pha chút ửng hồng.
“Hàm Tương của ta… biết ghen rồi?”
“Không có!” Ta giận dữ đứng lên.
Hắn vội kéo tay ta lại, vết thương đau đến nỗi hắn hít một hơi lạnh.
“Ta có việc quan trọng cần phải làm.”
Ta càng tức giận: “Việc gì mà quan trọng hơn cả mạng sống chứ?”
Hắn nhìn ta, kéo tay ta ngồi xuống bên giường.
“Nguyễn Hàm Tương, nếu một ngày nào đó, ta bị vùi trong núi xác biển máu, nàng có tìm ta mà chôn cất đàng hoàng không?”
Ta ngừng lại rất lâu, rồi đáp: “Không đời nào!”
Tiết Ương lại biến mất, ta tức giận đập nát bát thuốc bổ vừa nấu xong.
Ta thầm thề, nếu hắn còn xuất hiện lần nữa, ta tuyệt đối sẽ không cứu hắn.
Dù có bị thương nặng đến thế nào, ta cũng sẽ không cứu nữa.
Khi ta đang dọn dẹp đống bát vỡ, Nguyệt Nhi hoảng hốt chạy vào.
“Xuân nương, có chuyện rồi, tiệm cháy rồi!”
Ta vứt hết mảnh vỡ trong tay, chẳng để ý vết cắt trên tay, theo Nguyệt Nhi chạy vội đến tiệm.
Lửa bốc lên từ phía tây, gặp gió mạnh, cháy lan không thể cứu nổi.
Lửa cháy ròng rã suốt một ngày một đêm.
Tâm huyết bao lâu nay của ta, chỉ còn lại tro tàn.
Nguyệt Nhi đứng trước đống đổ nát, khóc nức nở, níu lấy tay áo ta mà hỏi:
“Xuân nương, phải làm sao đây, phải làm sao đây?”
Ta ôm lấy cô bé, dỗ dành: “Không sao đâu, chúng ta còn sống mà.”
Còn sống thì vẫn sẽ kiếm được tiền; còn sống thì một số người cũng sẽ quay về.
Dưới bầu trời đêm đen như mực, ta đứng ngẩn ngơ nhìn đống hoang tàn đổ nát trước mặt, muốn khóc mà nước mắt chẳng thể rơi.
Ta cho Nguyệt Nhi nghỉ phép, nhưng chỉ mấy ngày sau, cô bé đã gửi thư báo tin sắp thành thân.
Phu quân cô bé là một người đọc sách, không muốn thê tử mình phải xuất đầu lộ diện.
Ta khẽ cười cay đắng, thả lá thư trôi theo dòng nước trong ao.
Tâm huyết tiêu tan, lại còn gánh thêm một đống nợ nần.
Ta bán căn nhà, bồi thường thiệt hại cho các tiệm xung quanh.
Số tiền còn lại, ta chia một phần cho Nguyệt Nhi, phần còn lại dành cho học đường.
Chỉ sau một đêm, ta lại trắng tay.
Ngoại trừ con Ngân Nhận, ta như trở lại là cô bé Hàm Tương đến Hồ Thành lánh nạn năm nào.
Ta trở về tiểu viện cũ.
Một ngày nọ, Lâm bà bà đi ngang qua, thấy ta quay về, vẻ mặt có phần ngạc nhiên.
“Xuân Thảo? Cháu về khi nào vậy?”
Ta điềm nhiên cười, tìm một cái cớ.
“Vốn định nương nhờ người thân, nhưng tháng trước người đó qua đời, nên cháu lại trở về.”
“Ồ, vậy à. Trước đây trong thành có một bà chủ lớn tên là Xuân nương tử, bà còn tưởng đó là cháu chứ!”
Lâm bà bà từng nói sẽ chuyển đi, vậy mà khi ta quay về, bà vẫn còn ở đây.
Nghe lời bà, ta chỉ bật cười.
Lâm bà bà là người tốt, lại bắt đầu giới thiệu cho ta mấy việc giặt quần áo.
Nhưng ta đều từ chối.
Trong lòng có chí lớn, sao còn muốn ràng buộc dưới mái nhà tranh?
Nhìn con sông lớn trải dài, ta bắt đầu suy nghĩ về cuộc sống dưới nước.
Hồ Thành có hệ thống sông ngòi phong phú, nhiều loại thủy sản, đặc biệt là ngọc trai từ trai sông cũng chẳng thua kém gì ngọc trai biển.
Lần sau gặp lại Lâm bà bà, ta liền nhờ bà nhắn với huynh trưởng của bà, ông ấy là người buôn thủy sản, để ta theo phụ việc.
Thế là ta bắt đầu làm nghề thủy sản.
Những lúc nhàn rỗi, ta bán thêm ngọc trai tìm được trong trai sông, chế tác thành những chiếc trâm đẹp mắt.
Lâu dần, ta nhận ra ngọc trai sông là loại rẻ nhưng hạt lại to, rất được yêu thích.
Những cô nương nhà bình dân thích mua về để làm phụ kiện cài tóc.
Hơn nữa, ngọc trai của ta lại có màu sắc đẹp đẽ.
Dần dần, việc buôn bán của ta trở nên phát đạt, vượt xa những hàng quán nhỏ xung quanh.
Hồ Thành có một tập tục không chính thức: mỗi năm vào ngày mùng ba tháng sáu, nhà phú hộ giàu nhất thành sẽ chi tiền tổ chức hội chùa.
Nhưng vào tháng năm năm nay, nghe nói biên thành có chiến loạn.
Thương gia khắp nước Cẩn Quốc đều phải quyên tiền bổ sung quân phí.
Nhà phú hộ hết tiền, hội chùa cũng chẳng còn.
Trở về, Lâm bà bà buồn bã than thở với ta: “Năm nào ta cũng nhờ hội chùa mà kiếm được chút tiền mưu sinh, giờ hội chùa không có, biết lấy gì mà sống đây? A Bảo còn đang chờ tiền để đi học nữa.”
Ta im lặng rút ra mười lượng bạc đưa cho Lâm bà bà.
Bà nhất quyết không nhận, nhưng ta vẫn kiên quyết đưa: “Lâm bà bà, trước kia khi cháu nghèo khó, bà đã giúp đỡ cháu, giờ cháu có chút khả năng, đó gọi là đền ơn đáp nghĩa.”
Khi bà nhận bạc, trong mắt ngấn lệ.
Bạn cần đăng nhập để bình luận