Dune - Xứ Cát

Chương 23

Muad'Dib thực sự có thể thấy trước Tương lai, nhưng chúng ta phải hiểu những giới hạn của năng lực đó. Chẳng hạn hãy nghĩ đến thị giác. Chúng ta có mắt, tuy nhiên không thể thấy gì nếu thiếu ánh sáng. Nếu đứng ở đáy thung lũng, ta không thể nhìn vượt ra ngoài thung lũng. Cũng vậy, Muad'Dib không thể lúc nào cũng lựa chọn cách nhìn xuyên qua địa hình bí ẩn. Người bảo chúng tôi rằng chỉ cần một quyết định tiên tri mơ hồ, có lẽ chẳng qua chỉ là lựa chọn từ này chứ không phải từ khác, cũng có thể thay đổi toàn bộ diện mạo của tương lai. Người bảo chúng tôi: "Khả năng nhìn vượt thời gian là rộng lớn, nhưng khi ta đã xuyên qua nó, thời gian sẽ trở thành cánh cửa hẹp." Và Người luôn đấu tranh chống lại sự cám dỗ lựa chọn một hướng đi an toàn, sáng sủa; Người cảnh báo: "Con đường đó chỉ càng dẫn dắt vào ngõ cụt."
- trích "Arrakis thức tỉnh" của Công chúa Irulan.

Khi những chiếc tàu chim từ trong bóng đêm bay ra lướt trên đầu họ, Paul chộp tay mẹ, nói nhanh: "Đừng động đậy!"
Rồi cậu thấy chiếc tàu dẫn đầu dưới ánh trăng, thấy cách nó cụp cánh vào để hãm tốc độ nhằm hạ cánh, thấy sự quyết đoán liều lĩnh của đôi tay điều khiển.
"Idaho đấy, " cậu thở phào.
Chiếc tàu cùng đoàn hộ tống hạ xuống vùng lòng chảo như một bầy chim về tổ. Bụi chưa lắng xuống thì Idaho đã ở bên ngoài tàu và chạy về phía họ. Hai dáng người mặc áo choàng Fremen theo sau anh ta. Paul nhận ra một người: vị Kynes dáng người cao, có bộ râu màu cát.
"Lối này!" Kynes gọi rồi quay sang trái.
Đằng sau Kynes, những người Fremen khác đang ném vải trùm lên các con tàu. Đoàn tàu biến thành một dãy đụn cát thấp.
Idaho trượt tới trước mặt Paul rồi dừng lại, giơ tay chào. "Bẩm Chúa công, người Fremen có một nơi trú ẩn tạm thời gần đây, ở đó ta có thể..."
"Còn đằng kia thì sao?"
Paul trỏ về quang cảnh ác liệt phía trên vách đá đằng xa - những luồng lửa, những tia laze màu tía quất ngang sa mạc.
Một nụ cười hiếm hoi thấp thoáng trên khuôn mặt tròn, điềm tĩnh của Idaho. "Bẩm Chúa công, tôi đã để lại cho họ một ít..."
Ánh sáng trắng chói lòa ngập tràn sa mạc - sáng như mặt trời, tạc bóng họ như lên nền gờ đá. Bằng một động tác chớp nhoáng, một tay nắm tay Paul, tay kia nắm vai Jessica, Idaho lôi họ rời khỏi thềm đá xuống sâu trong lòng chảo. Họ ngã sóng soài trên cát khi một tiếng nổ gầm vang như sấm trên đầu. Sóng xung kích của nó khiến đá từ gờ đá nơi họ vừa đứng rơi lả tả.
Idaho ngồi dậy, phủi cát khỏi người.
"Không phải nguyên tử của gia tộc ta, " Jessica nói. "Tôi nghĩ..."
"Các anh đã đặt một tấm chắn ở đằng đó, " Paul nói.
"Một tấm chắn lớn được kích hoạt với sức mạnh tối đa, " Idaho nói. "Một tia súng laze chạm phải nó và..." Anh ta nhún vai.
"Phản ứng tổng hợp hạ nguyên tử, " Jessica nói. "Đó là một vũ khí nguy hiểm."
"Không phải vũ khí, thưa Lệnh bà, mà là công cụ bảo vệ. Lần sau thì đồ cặn bã đó sẽ phải nghĩ hai lần trước khi dùng súng laze."
Những người Fremen bước ra từ các tàu chim dừng lại phía trên họ. Một người thấp giọng đề nghị: "Chúng ta nên tìm chỗ ẩn núp, các bạn ạ."
Paul đứng dậy trong khi Idaho giúp Jessica đứng lên.
"Cú nổ đó nhất định sẽ khiến nhiều người chú ý, thưa Chúa công, " Idaho nói.
Chúa công, Paul nghĩ.
Cái từ đó nghe thật kỳ lạ khi người ta dùng để xưng hô với cậu. Xưa nay Chúa công luôn là cha cậu.
Cậu cảm thấy bị năng lực tiên tri của mình tác động trong một khoảnh khắc, cảm nhận chính mình bị nhiễm cái ý thức giống nòi hoang dã đang khiến vũ trụ loài người tiến tới chỗ hỗn loạn. Thị kiến đó khiến cậu rúng động, và cậu để mặc cho Idaho dẫn đi dọc mép lòng chảo đến một chỗ đá nhô ra. Những người Fremen ở đó đang dùng dụng cụ nén mở một lối đi sâu xuống cát.
"Tôi mang ba lô hộ ngài nhé, thưa Chúa công?" Idaho hỏi.
"Không nặng đâu Duncan ạ, " Paul nói.
"Ngài không có tấm chắn hộ thân, " Idaho nói. "Ngài muốn dùng tấm của tôi không?" Anh liếc nhìn vách đá đằng xa. "Có lẽ chúng sẽ không bắn súng laze nữa đâu."
"Cứ giữ tấm chắn của anh đi, Duncan. Cánh tay phải của anh đủ làm tấm chắn cho ta rồi."
Jessica nhận thấy lời khen đó có hiệu quả như thế nào, thấy Idaho nhích lại gần Paul hơn, và nàng nghĩ: Trong đám người này, con ta nhận được một bàn tay chắc chắn biết bao.
Người Fremen dịch tảng đá chắn ra để lộ lối đi dẫn xuống một khu liên hợp hầm tự nhiên của sa mạc. Một bụi cây ngụy trang được trang bị tại lối vào.
"Đường này, " một người Fremen nói, dẫn cả đoàn bước xuống những bậc đá vào trong bóng tối.
Đằng sau họ, bụi cây ngụy trang che mờ ánh trăng. Một ánh sáng xanh lờ mờ hiện ra ở phía trước, làm lộ ra những bậc đá và tường đá, một lối rẽ về phía trái. Lúc này những người Fremen mặc áo choàng đứng khắp xung quanh họ, xúm xít đi xuống dưới. Họ vòng qua góc rẽ, nhận thấy một lối đi xiên xuống khác. Nó dẫn vào một khoang hang gồ ghề.
Kynes đứng trước họ, mũ trùm đầu hất ra đằng sau. Cổ áo sa phục lấp lánh trong ánh sáng xanh. Mái tóc dài và bộ râu rối bù. Đôi mắt chỉ một màu xanh là hai cái hốc tối ngòm dưới hàng lông mày rậm.
Trong khoảnh khắc chạm trán, Kynes tự hỏi: Tại sao ta lại giúp đỡ những người này? Đây là việc nguy hiểm nhất ta từng làm. Nó có thể khiến ta chết cùng họ.
Rồi ông nhìn trực diện Paul, quan sát cậu bé vừa đảm nhận vai trò người trưởng thành, cậu ta đang che giấu nỗi đau thương, đang đè nén mọi thứ ngoại trừ cái địa vị phải được tiếp nhận trong lúc này - địa vị công tước. Và trong khoảnh khắc đó Kynes nhận ra địa vị công tước vẫn đang tồn tại và chỉ tồn tại vì cậu bé này - và đây không phải chuyện có thể khinh suất.
Jessica nhìn lướt qua khoang hang động, ghi nó vào giác quan theo phương pháp Bene Gesserit - một phòng thí nghiệm, một khu vực dân sự đầy những góc và hình vuông kiểu cổ.
"Đây là một trong những Trạm Nghiên cứu Sinh thái học Đế quốc mà cha tôi từng ao ước có để làm căn cứ tiên phong, " Paul nói.
Cha cậu bé từng muốn! Kynes nghĩ.
Lại một lần nữa Kynes tự hỏi: Ta có ngu ngốc không khi giúp đỡ những kẻ trốn chạy này? Tại sao ta lại giúp họ? Giờ mà muốn bắt giữ họ để mua lòng tin của bọn Harkonnen thì thật quá dễ dàng.
Paul theo gương mẹ, nghiên cứu kỹ căn phòng, nhìn thấy chiếc bàn làm việc đặt ở một bên, những bức tường đá cái nào cũng giống cái nào. Dụng cụ xếp thành hàng trên chiếc ghế dài - những phím phát sáng, các gridex plane bằng dây kim loại với những cái vòi thủy tinh có rãnh thòi ra. Mùi ô zôn tràn ngập nơi này.
Vài người Fremen rẽ vào một góc khuất trong khoang và những âm thanh mới bắt đầu vang lên ở đó - máy móc kêu khục khặc, những dây cua roa và bộ đa truyền động xoay tròn rít lên the thé.
Paul nhìn về phía cuối căn phòng, thấy có những chiếc lồng nhốt các con thú nhỏ xếp thành chồng tựa vào tường.
"Cậu vừa nhận ra chính xác nơi này, " Kynes nói. "Cậu sẽ làm gì với một nơi như thế này, Paul Atreides?"
"Cải tạo hành tinh này cho phù hợp với con người, " Paul nói.
Có lẽ đó chính là lý do ta giúp họ, Kynes nghĩ.
Tiếng máy móc đột ngột nhỏ dần rồi im hẳn. Thay vào đó là tiếng loài vật kêu chin chít nho nhỏ từ phía những chiếc lồng. Tiếng kêu ngừng lại đột ngột như thể trong cơn bối rối.
Paul lại chú ý vào những chiếc lồng, nhận ra giống vật ở trong đó là những con dơi cánh nâu. Một máng ăn tự động kéo dài từ tường bên ngang qua những chiếc lồng.
Một người Fremen hiện ra từ chỗ khuất trong khoang, nói với Kynes: "Thưa Liet, máy phát trường không hoạt động. Tôi không thể che giấu chúng ta khỏi các máy dò."
"Anh có sửa được không?" Kynes hỏi.
"Không sửa nhanh được. Những bộ phận..." Người Fremen nhún vai.
"Được rồi, " Kynes nói. "Vậy chúng ta sẽ làm mà không cần máy móc. Lấy một cái bơm tay để bơm khí ra ngoài bề mặt."
"Tôi làm ngay đây." Người Fremen vội vã đi ra.
Kynes lại quay sang Paul. "Cậu đã đưa ra một câu trả lời xuất sắc."
Jessica chú ý đến âm thanh trầm sâu dễ chịu trong giọng Kynes. Đó là giọng nói hoàng gia, vốn chỉ quen ra lệnh. Và nàng cũng không quên người ta đã nhắc đến ông ta như là Liet. Liet là bản ngã thứ hai của người Fremen này, một gương mặt khác của nhà hành tinh học dễ bảo này.
"Chúng tôi rất biết ơn các ông đã giúp đỡ, Tiến sĩ Kynes ạ, " nàng nói.
"Hừm, chúng ta cứ chờ xem, " Kynes nói. Ông gật đầu với một thuộc hạ. "Mang cà phê hương dược vào phòng tôi, Shamir."
"Có ngay, thưa Liet, " tay thuộc hạ nói.
Kynes chỉ vào một lối đi hình vòm mở ra từ vách khoang. "Quý vị vui lòng qua bên này chứ?"
Jessica cho phép mình gật đầu một cách vương giả trước khi chấp nhận. Nàng thấy Paul vẫy tay ra hiệu cho Idaho, bảo anh ta cắt đặt đội bảo vệ ở đây.
Lối đi này xuống sâu hai bước, dẫn tới cánh cửa nặng trịch mở vào một căn phòng hình vuông được những quả đèn cầu màu vàng chiếu sáng. Jessica lướt tay qua cánh cửa khi đi vào, giật mình nhận ra cửa làm bằng thép dẻo.
Paul bước ba bước vào căn phòng, thả ba lô xuống sàn nhà. Cậu nghe thấy tiếng cửa đóng lại đằng sau mình, quan sát căn phòng - mỗi cạnh khoảng tám mét, tường bằng đá tự nhiên, màu cà ri, bị chia cắt bởi những chiếc tủ kim loại xếp thành hàng phía bên phải họ. Một chiếc bàn thấp có mặt kính màu trắng sữa đầy những hình bong bóng màu vàng chiếm cứ giữa căn phòng. Bốn chiếc ghế treo vòng quanh bàn.
Kynes đi vòng qua Paul, kéo một ghế cho Jessica. Nàng ngồi xuống, để ý cách con trai mình quan sát căn phòng.
Paul vẫn đứng thêm khoảng một nháy mắt nữa. Một cái gì đó không bình thường thoang thoảng trong luồng không khí của căn phòng nói với cậu rằng có một lối ra bí mật phía bên phải họ, sau dãy tủ.
"Cậu cũng ngồi xuống chứ, Paul Atreides?" Kynes hỏi.
Ông ta thật cẩn thận khi tránh nhắc đến tước vị của ta, Paul nghĩ. Nhưng cậu chấp nhận chiếc ghế, vẫn im lặng trong lúc Kynes ngồi xuống.
"Cậu cảm thấy Arrakis có thể là một thiên đường, " Kynes nói. "Tuy nhiên, như cậu thấy đấy, Đế quốc chỉ phái đến đây những kẻ đâm thuê chém mướn được huấn luyện, những kẻ săn lùng hương dược!"
Paul giơ ngón tay cái đeo chiếc nhẫn có ấn công tước lên. "Ông có nhìn thấy chiếc nhẫn này không?"
"Có."
"Ông có biết ý nghĩa của nó không?"
Jessica quay phắt lại nhìn chằm chằm vào con trai.
"Cha cậu đang nằm chết trong đống đổ nát của Arrakeen, " Kynes nói. "Nói theo nghĩa chính xác thì bây giờ cậu là Công tước."
"Tôi là một người lính của Đế quốc, " Paul nói, "nói theo nghĩa chính xác là một kẻ đâm thuê chém mướn."
Khuôn mặt Kynes tối sầm lại. "Ngay cả khi quân Sardaukar của Hoàng đế đứng trên xác cha cậu sao?"
"Quân Sardaukar là một chuyện, còn nguồn gốc quyền lực hợp pháp của tôi là chuyện khác, " Paul nói.
"Arrakis có cách thức riêng để xác định ai là người mặc chiếc áo quyền lực, " Kynes nói.
Và Jessica quay lại nhìn Kynes, thầm nghĩ: Trong con người này có một sự sắt đá mà không ai có thể làm mất đi độ cứng... và chúng ta cần sự sắt đá. Paul đang làm một việc nguy hiểm.
Paul nói: "Quân Sardaukar trên Arrakis là một thước đo cho thấy Hoàng đế kính mến của chúng ta sợ cha tôi như thế nào. Bây giờ, chính tôi sẽ khiến cho Hoàng đế Padishah có những lý do để sợ..."
"Cậu bé, " Kynes nói, "có những chuyện mà cậu không..."
"Ông hãy gọi tôi là Chúa công hoặc Tướng công, " Paul nói.
Thật nhẹ nhàng, Jessica nghĩ.
Kynes nhìn Paul chằm chằm, và Jessica để ý thấy vẻ ngưỡng mộ trên khuôn mặt của nhà hành tinh học, thoáng chút hóm hỉnh ở đó.
"Vâng, thưa Chúa công, " Kynes nói.
"Ta là người khiến Hoàng đế phải lo lắng, " Paul nói. "Ta là người khiến tất cả những ai muốn chia chác Arrakis như là chiến lợi phẩm phải lo lắng. Chừng nào ta còn sống, nhất định ta vẫn tiếp tục là nỗi lo ấy, cái nỗi lo siết chặt cổ họng họ khiến họ tắc thở cho đến chết!"
"Toàn lời suông, " Kynes nói.
Paul nhìn ông ta chằm chằm. Ngay sau đó, Paul nói: "Ở đây các người có một truyền thuyết về Lisan al-Gaib, Giọng nói Từ Thế giới Bên Ngoài, người sẽ dẫn dắt dân Fremen tới thiên đường. Thuộc hạ của ông có..."
"Thật mê tín!" Kynes nói.
"Có thể mê tín, " Paul đồng ý. "Mà cũng có thể không. Đôi khi sự mê tín có những gốc rễ kỳ lạ và những cành nhánh còn kỳ lạ hơn, " Paul nói.
"Ngài có một kế hoạch, " Kynes nói. "Điều này quá rõ ràng... thưa Chúa công."
"Người Fremen của ông có thể cung cấp cho tôi bằng chứng xác thực rằng quân Sardaukar ở đây mặc đồng phục Harkonnen không?"
"Có thể lắm."
"Hoàng đế sẽ đặt một tên Harkonnen vào chiếc ghế quyền lực ở đây, " Paul nói. "Thậm chí có thể là Rabban Thú dữ. Cứ mặc kệ ông ta. Một khi Hoàng đế đã nhúng tay vào đến mức không còn thoát tội được thì cứ để ông ta đối mặt với Dự luật Đặc biệt có thể được đưa ra trước Landsraad. Hãy để ông ta trả lời ở đó, nơi mà..."
"Paul!" Jessica nói.
"Cứ cho là Hội đồng Cấp cao Landsraad tiếp nhận vụ kiện của ngài đi nữa, " Kynes nói, "việc đó chỉ có thể dẫn đến một kết quả: chiến tranh tổng lực giữa Đế quốc và các Đại Gia tộc."
"Hỗn loạn, " Jessica nói.
"Nhưng ta sẽ trình vụ kiện lên Hoàng đế, " Paul nói, "và trao cho ông ta một giải pháp khác ngoài sự hỗn loạn."
Jessica nói khô khốc: "Tống tiền?"
"Một trong những công cụ của thuật trị quốc, như chính mẹ từng nói, " Paul nói, và Jessica nghe thấy sự gay gắt trong giọng cậu. "Hoàng đế không có con trai mà chỉ có con gái."
"Con nhắm đến ngai vàng ư?" Jessica hỏi.
"Hoàng đế sẽ không mạo hiểm đẩy Đế quốc vào cảnh tan hoang do chiến tranh toàn diện, " Paul nói. "Những hành tinh bị tàn phá, đâu đâu cũng toàn là hỗn loạn - ông ta sẽ không mạo hiểm như thế."
"Cái Chúa công đề xuất là một canh bạc mạo hiểm, " Kynes nói.
"Các Đại Gia tộc trong Landsraad sợ gì nhất nào?" Paul hỏi. "Họ sợ nhất những gì đang xảy ra ở đây, ngay lúc này, trên Arrakis - quân Sardaukar đang ngắm tỉa bọn họ từng người, từng người một. Chính vì vậy mới có Landsraad. Đây là chất keo gắn kết của Đại Hiệp định. Chỉ liên minh lại thì bọn họ mới ngang tài ngang sức với quân đội của Đế quốc."
"Nhưng họ..."
"Đây là điều họ sợ, " Paul nói. "Arrakis sẽ toàn tiếng khóc than. Mỗi người trong bọn họ sẽ nhìn thấy chính mình trong cha ta - bị tách khỏi nhóm và bị giết."
Kynes nói với Jessica: "Kế hoạch của Chúa công sẽ hiệu quả chứ?"
"Tôi không phải Mentat, " Jessica nói.
"Nhưng Lệnh bà là Bene Gesserit."
Nàng nhìn chằm chằm thăm dò ông ta, rồi nói: "Kế hoạch của nó có điểm hay và điểm dở... bất kỳ kế hoạch nào cũng đều vậy cả. Kế hoạch thành công hay không tùy thuộc vào sự thực thi cũng chẳng kém gì so với tùy thuộc vào cái ý tưởng xây nên nó."
" 'Luật pháp là môn khoa học tối hậu,' " Paul trích dẫn. "Trên cửa phòng Hoàng đế ghi như vậy. Ta dự định cho ông ta thấy luật pháp."
"Tôi thì không chắc mình có thể tin cậy ở con người đã nảy ra cái kế hoạch này, " Kynes nói. "Arrakis có kế hoạch riêng mà chúng tôi..."
"Khi đã ngồi lên ngai vàng, ta có thể vẫy tay một cái là biến Arrakis thành thiên đường, " Paul nói. "Đây là cái đồng bạc ta sẽ trả cho sự ủng hộ của ông."
Kynes cứng người lại. "Lòng trung thành của tôi không phải để mua bán, thưa Chúa công."
Paul nhìn chằm chằm Kynes ở phía bên kia bàn, bắt gặp cái nhìn lạnh giá của đôi mắt màu xanh trong màu xanh, săm soi khuôn mặt râu ria và phong thái uy quyền đó. Một nụ cười gằn xuất hiện trên môi Paul, cậu đáp: "Nói hay lắm. Ta xin lỗi."
Kynes bắt gặp ánh mắt Paul, và nói ngay: "Chưa một gã Harkonnen nào chịu thừa nhận sai lầm. Có lẽ ngài không như họ, Atreides ạ."
"Đó có thể là một sai lầm trong cách giáo dục của họ, " Paul nói. "Ông nói ông không phải kẻ để mua hay bán, nhưng ta tin ta có cái đồng bạc mà ông sẽ nhận. Để đổi lấy lòng trung thành của ông, ta trao lòng trung thành của ta cho ông... trọn vẹn."
Con ta có sự trung thực của nhà Atreides, Jessica nghĩ. Nó có cái phẩm giá đặc biệt, gần như hồn nhiên đó, và điều này thực sự là một sức mạnh to lớn biết bao.
Nàng thấy lời Paul nói đã khiến Kynes rúng động.
"Thật vớ vẩn, " Kynes nói. "Ngài chỉ là một đứa trẻ và..."
"Ta là Công tước, " Paul nói. "Ta là người của gia tộc Atreides. Chưa người Atreides nào cam kết như vậy rồi lại nuốt lời."
Kynes nuốt nước bọt.
"Khi ta nói 'một cách trọn vẹn', ý ta muốn nói là hoàn toàn không so đo tính toán. Ta sẽ hy sinh tính mạng vì ông."
"Chúa công!" Kynes nói, và dù chữ đó khó khăn lắm mới bật ra được, nhưng Jessica nhận thấy giờ đây không phải ông đang nói với một cậu bé mười lăm tuổi mà với một người trưởng thành, một người trên. Giờ thì Kynes thực sự muốn nói lên từ đó với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Trong khoảnh khắc này ông ta sẽ dâng mạng sống cho Paul, nàng nghĩ. Làm sao nhà Atreides có được điều đó nhanh chóng đến thế, dễ dàng đến thế?
"Tôi hiểu ý Chúa công, " Kynes nói. "Nhưng bọn Harkon..."
Cánh cửa sau lưng Paul mở sầm ra. Cậu quay phắt lại thì thấy cảnh hỗn chiến quay cuồng - tiếng la hét, sắt thép chạm nhau chan chát, những khuôn mặt trắng bệch như sáp nhăn nhó trong hành lang.
Cùng với mẹ bên cạnh, Paul lao về phía cửa, thấy Idaho đứng chắn hành lang, cặp mắt ngầu máu của anh hiện rõ mồn một qua tấm chắn mờ, những bàn tay móng vuốt không chạm được vào anh, những lưỡi thép hình vòng cung bổ một cách vô ích vào tấm chắn. Cái mồm lửa màu cam của một súng phi tiêu bị tấm chắn đẩy bật ra. Lưỡi gươm của Idaho đâm xuyên qua tất cả, vung lên loang loáng, nhểu ra máu đỏ.
Rồi Kynes đến bên Paul và họ dùng sức nặng thân mình tấn chặt cửa.
Paul còn kịp thoáng thấy Idaho lần cuối, thấy anh đương đầu với một bầy lốc nhốc những bộ đồng phục Harkonnen - dáng đứng loạng choạng giật cục đầy kiềm chế của anh, mái tóc như lông dê đen nhánh với cái chết đỏ lòm bừng nở trên đó. Rồi cửa đóng lại và có tiếng tách khi Kynes cài then cửa.
"Có vẻ như tôi đã quyết định rồi, " Kynes nói.
"Có ai đó đã phát hiện ra thiết bị của ông trước khi nó ngừng hoạt động, " Paul nói. Cậu kéo mẹ tránh xa cánh cửa, nhìn thấy nỗi tuyệt vọng trong mắt mẹ.
"Lẽ ra tôi nên ngờ là có chuyện không hay khi cà phê không được mang tới, " Kynes nói.
"Ông có một lối thoát hiểm ra khỏi đây, " Paul nói. "Chúng ta sẽ sử dụng nó chứ?"
Kynes hít một hơi sâu rồi nói: "Cánh cửa này có thể chống đỡ được mọi sức công phá ít nhất là trong hai mươi phút, chỉ cần không có súng laze."
"Bọn chúng sẽ không sử dụng súng laze vì sợ chúng ta đặt sẵn tấm chắn bảo vệ ở phía bên này, " Paul nói.
"Bọn chúng là quân Sardaukar mặc đồng phục Harkonnen, " Jessica thì thầm.
Giờ thì họ có thể nghe thấy tiếng phá cửa, những tiếng nện nhịp nhàng.
Kynes chỉ vào dãy tủ tựa vào bức tường bên tay phải rồi nói: "Lối này." Ông bước tới cái tủ đầu tiên, mở một ngăn kéo, khéo léo điều chỉnh tay cầm bên trong. Toàn bộ vách của những chiếc tủ mở ra để lộ một miệng hầm tối om. "Cánh cửa này cũng làm bằng thép dẻo, " Kynes nói.
"Ông chuẩn bị thật chu đáo, " Jessica nói.
"Chúng tôi sống dưới thời Harkonnen tám mươi năm rồi, " Kynes nói. Ông hướng họ đi vào trong bóng tối rồi đóng cửa lại.
Trong vùng tối đột ngột, Jessica nhìn thấy một mũi tên tỏa sáng trên nền đường hầm trước mặt nàng.
Giọng Kynes phát ra đằng sau họ: "Chúng ta sẽ tách nhau ra ở đây. Bức tường này rất chắc chắn. Nó sẽ trụ vững trong ít nhất một tiếng đồng hồ. Hãy đi theo những mũi tên giống mũi tên trên nền kia. Chúng sẽ chỉ đường đi cho hai người. Chúng xuyên qua mê cung tới một cửa thoát hiểm khác, ở đó tôi đã giấu sẵn một con tàu chim. Tối nay sẽ có một cơn bão đi qua vùng sa mạc. Hy vọng duy nhất của hai người là chạy theo cơn bão đó, bổ nhào vào đỉnh của nó, lướt đi cùng nó. Người của tôi đã lái như thế trong những con tàu đánh cắp. Nếu các vị giữ cho tàu ở vị trí cao trong cơn bão, các vị sẽ sống sót."
"Thế còn ông?" Paul hỏi.
"Tôi sẽ cố trốn bằng đường khác. Nếu tôi bị bắt... ừ thì, tôi vẫn là nhà hành tinh học của Đế quốc. Tôi có thể nói tôi bị các vị bắt giữ."
Chạy trốn như những kẻ nhát gan, Paul nghĩ. Nhưng ta còn có thể lựa chọn cách sống nào khác nếu muốn trả thù cho cha đây? Cậu quay người đối mặt với cánh cửa.
Jessica nghe thấy con chuyển động, bèn nói: "Duncan chết rồi, Paul à. Con đã nhìn thấy cậu ấy bị thương. Con chẳng thể làm gì cho cậu ấy."
"Sẽ có ngày con bắt chúng phải trả giá cho tất cả bọn họ, " Paul nói.
"Nếu giờ các vị không nhanh lên thì sẽ chẳng có chuyện đó đâu, " Kynes nói.
Paul cảm thấy tay ông ta đặt trên vai cậu.
"Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu hở Kynes?" Paul hỏi.
"Tôi sẽ cử người Fremen đi tìm các vị. Đường đi của cơn bão đã rõ. Giờ thì nhanh lên, Mẹ Vĩ đại sẽ ban cho các vị tốc độ và may mắn."
Họ nghe thấy ông ra đi, có tiếng chuyển động trong bóng tối.
Jessica tìm thấy tay Paul, nhẹ nhàng kéo cậu. "Hai mẹ con mình không được rời nhau, " nàng nói.
"Vâng."
Cậu theo mẹ đi qua mũi tên đầu tiên, thấy nó chuyển sang màu đen khi họ chạm vào. Một mũi tên khác dẫn đường cho họ ở phía trước.
Họ bước qua, thấy nó tự tắt, rồi lại thấy một mũi tên khác ở phía trước.
Lúc này họ đang chạy.
Những sơ đồ trong những sơ đồ nằm trong những sơ đồ trong sơ đồ, Jessica nghĩ. Bây giờ liệu chúng ta có trở thành một phần trong kế hoạch của ai đó khác không?
Các mũi tên chỉ đường cho họ vòng qua những chỗ ngoặt, qua những lối đi chỉ hiện ra mờ mờ dưới ánh sáng yếu ớt. Con đường của họ có đoạn dốc xuống rồi lại dốc lên, lên nữa. Cuối cùng họ tới dãy bậc thang, vòng qua một góc rồi bị chặn lại bởi một bức tường phát sáng ở giữa có tay nắm màu tối.
Paul ấn vào tay nắm.
Bức tường xoay ra xa họ. Ánh sáng rực rỡ làm lộ ra một cái hang lớn đẽo vào đá, giữa hang có một con tàu nằm phủ phục. Phía bên kia tàu chim là một bức tường màu xám bằng phẳng có ký hiệu chỉ cánh cửa hiện ra lờ mờ.
"Kynes đi đâu vậy?" Jessica hỏi.
"Ông ấy làm điều mà bất cứ chỉ huy quân du kích tài giỏi nào đều nên làm, " Paul nói. "Ông ấy tách chúng ta thành hai nhóm và sắp đặt sao cho nếu bị bắt thì ông ấy cũng không thể tiết lộ chúng ta ở đâu. Ông ấy thực sự không biết."
Paul dẫn nàng vào trong phòng, để ý thấy chân của họ làm tung bụi trên sàn nhà.
"Phòng này không có người từ rất lâu rồi, " cậu nói.
"Ông ấy có vẻ tin chắc rằng người Fremen sẽ tìm được chúng ta, " nàng nói.
"Con cũng tin như thế."
Paul thả tay mẹ, đi đến chiếc cửa bên trái con tàu, mở cửa, buộc chặt ba lô vào ghế sau. "Vị trí tàu này được che kín, " cậu nói. "Bảng thiết bị có bộ điều khiển cửa từ xa, bộ điều khiển ánh sáng. Tám mươi năm sống dưới thời Harkonnen đã dạy họ biết cẩn thận."
Jessica dựa vào phía bên kia con tàu, nín thở.
"Bọn Harkonnen sẽ phái một đội quân càn quét toàn bộ vùng này, " nàng nói. "Chúng chẳng ngu đâu." Nàng cân nhắc cảm nhận phương hướng của mình, chỉ về bên phải. "Cơn bão chúng ta sẽ gặp nằm trên đường đó."
Paul gật đầu, đấu tranh với sự miễn cưỡng đột ngột không muốn di chuyển. Cậu biết nguyên nhân vì sao, nhưng nhận ra có biết thì cũng chẳng giúp gì được. Ở nơi nào đó trong đêm nay cậu đã đi qua một chuỗi kết nối những quyết định để tiến sâu vào một vùng không biết. Cậu biết rõ khu vực thời gian bao quanh họ, nhưng cái ngay ở đây trong lúc này thì lại như một vùng bí ẩn. Như thể cậu đã nhìn thấy chính mình ở đằng xa vừa đi xuống một thung lũng, khuất khỏi tầm nhìn. Trong vô vàn con đường từ thung lũng đó đi lên, vài con đường có thể đưa Paul Atreides trở lại tầm nhìn, nhưng nhiều đường khác thì không.
"Chúng ta càng chần chừ thì chúng càng chuẩn bị tốt hơn, " Jessica nói.
"Mẹ vào trong đi, thắt dây an toàn chặt vào, " Paul nói.
Cậu vào trong tàu cùng mẹ, vẫn vật lộn với ý nghĩ rằng đây là một vị trí mù, bất cứ thị kiến tiên tri nào cũng không nhìn thấy được. Rồi cậu đột ngột choáng váng nhận ra cậu đang ngày càng dựa vào trí nhớ tiên tri, và riêng trong tình huống khẩn cấp này, điều đó đã làm cậu yếu đi.
"Nếu bạn chỉ dựa vào mắt mình, các giác quan khác sẽ yếu đi." Đó là một châm ngôn Bene Gesserit. Giờ thì cậu vận câu nói này vào hoàn cảnh của mình, tự hứa sẽ không bao giờ lại rơi vào cái bẫy đó... nếu cậu sống sót qua đận này.
Paul thắt chặt dây an toàn, nhìn sang thấy mẹ đã thắt dây rồi, bèn kiểm tra con tàu. Các cánh trải rộng tối đa trong trạng thái nghỉ, những gân cánh bằng kim loại mảnh duỗi thẳng. Cậu chạm vào thanh điều khiển thu cánh, quan sát những chiếc cánh thu ngắn lại để cất cánh nhờ sức đẩy động cơ theo cách mà Gurney Halleck đã dạy cậu. Công tắc khởi động di chuyển dễ dàng. Bộ phím trên bảng thiết bị bật sáng khi động cơ phản lực được khởi động. Tua bin bắt đầu kêu xì xì khe khẽ.
"Mẹ sẵn sàng chưa?" cậu hỏi.
"Rồi."
Cậu ấn vào bộ điều khiển hệ thống đèn từ xa.
Bóng tối trùm lên họ.
Khi cậu nhả bộ điều khiển cửa từ xa ra, bàn tay cậu là một cái bóng tương phản với những phím sáng. Có tiếng rít phía trên đầu họ. Một dòng cát kêu xào xạo phá vỡ bầu không khí yên lặng. Một làn gió nhẹ lướt qua má Paul. Cậu đóng cửa máy bay lại, cảm thấy một áp suất đột ngột.
Khi bức tường-cửa phòng mở ra, họ thấy một khuôn trời rộng tràn ngập những vì sao chiếu sáng mờ mờ qua lớp bụi. Ánh sao soi rõ một thềm đá phía bên ngoài, trông như những gợn cát.
Paul ấn xuống chuỗi công tắc phát sáng trên bảng điều khiển. Các cánh hạ xuống về phía sau, đưa con tàu rời khỏi nơi ẩn nấp. Nguồn lực trào ra từ các động cơ phản lực khi cánh tàu thu lại trong tư thế cất cánh.
Jessica lướt nhẹ tay trên bộ điều khiển kép, cảm thấy sự chắc chắn trong những cử động của con trai. Nàng lo lắng, song cũng lại thấy hồ hởi. Bây giờ, những gì mọi người đã huấn luyện cho Paul là hy vọng duy nhất của chúng ta, nàng nghĩ. Cả tuổi trẻ và sự nhanh nhẹn của thằng bé nữa.
Paul nạp thêm điện cho động cơ phản lực. Con tàu nghiêng đi khiến họ lún xuống ghế ngồi khi một bức tường tối sẫm nhô lên nổi bật dưới những vì sao ở phía trước. Cậu tiếp thêm điện cho con tàu, điều khiển các cánh dài thêm ra. Thêm một lần đập cánh mạnh nữa, rồi chiếc tàu chim vọt lên bay qua những khối đá, qua những góc cạnh và ụ cát phủ sương bạc dưới ánh sao. Mặt trăng thứ hai ửng đỏ phủ bụi hiện ra trên đường chân trời bên phải họ, định rõ đường đi của bão.
Tay Paul nhảy múa trên bộ điều khiển. Những chiếc cánh cụp vào khiến tàu chim trông như con bọ cánh cứng. Lực hấp dẫn đè lên thân thể họ khi con tàu chao nghiêng một vòng.
"Phía sau chúng ta có các luồng lửa!" Jessica nói.
"Con thấy rồi."
Cậu đóng sầm công tắc điện về phía trước.
Con tàu nhảy chồm lên như con thú đang sợ hãi, lao về phía Tây Nam theo hướng cơn bão rồi lượn một vòng rộng trên sa mạc. Ở khoảng cách gần, Paul nhìn thấy những cái bóng rải rác như muốn nói rằng các dãy đá đến đây là hết, hệ thống hang động đang chìm xuống dưới những đụn cát. Những cái bóng hình móng tay trải dài bên dưới trong ánh trăng - những đụn cát thu nhỏ dần vào nhau.
Và phía trên đường chân trời nhô lên một vùng bằng phẳng rộng lớn - ấy là cơn bão, giống như bức tường nổi bật dưới những vì sao.
Có cái gì đó va mạnh vào tàu.
"Vỏ tàu vỡ!" Jessica thở hổn hển. "Bọn chúng đang sử dụng loại vũ khí phóng đạn nào đó."
Nàng thấy nụ cười toe toét bất ngờ hiện trên khuôn mặt Paul. "Có vẻ như bọn chúng tránh dùng súng laze, " cậu nói.
"Nhưng chúng ta không có tấm chắn!"
"Chúng có biết điều đó không?"
Con tàu lại lắc mạnh.
Paul quay người nhìn về phía sau. "Hình như bọn chúng chỉ có một tàu bay đủ nhanh để có thể đuổi kịp chúng ta."
Cậu chú ý vào đường đi, quan sát bức tường bão dâng lên cao dần phía trước họ. Nó mờ mờ hiện ra, sừng sững như một khối rắn hữu hình.
"Máy phóng, tên lửa, tất cả những vũ khí cổ xưa đó - nó là thứ mà chúng ta sẽ trao cho người Fremen, " Paul thì thầm.
"Cơn bão, " Jessica nói. "Con đổi hướng bay không tốt hơn sao?"
"Thế còn con tàu đằng sau chúng ta?"
"Nó đang dừng lại."
"Vậy thì!"
Paul thu cánh, chao hẳn con tàu sang bên trái, lượn vào bức tường bão trông như thể đang sôi chầm chậm, cảm thấy má cậu bị kéo theo lực hấp dẫn.
Họ gần như trượt vào một đám mây bụi bay chầm chậm, đám bụi ngày càng dày đặc cho đến khi che mờ cả sa mạc lẫn mặt trăng. Con tàu trở thành một tiếng thì thầm của bóng tối nằm dài theo phương ngang, chỉ được soi chiếu nhờ ánh sáng xanh phát ra từ bảng điều khiển.
Những lời cảnh báo về các cơn bão như thế lướt nhanh như chớp qua tâm trí Jessica - rằng chúng cắt kim loại như cắt bơ, khoét vào thịt sâu đến tận xương và gặm dần vào xương. Nàng cảm thấy cú va chạm của cơn cuồng phong phủ kín bụi. Nó xoáy họ quay mòng mòng trong khi Paul đánh vật với bộ điều khiển. Nàng thấy con liên tục thay đổi mức điện, cảm thấy con tàu hết trồi lên lại thình lình sụt xuống. Vỏ kim loại xung quanh họ kêu xì xì và rung lên bần bật.
"Cát đó!" Jessica kêu lên.
Nàng thấy cậu lắc đầu phủ nhận dưới ánh sáng phát ra từ bảng điều khiển. "Ở độ cao này thì không có nhiều cát lắm."
Nhưng nàng có thể cảm thấy họ đang càng lúc càng lún sâu vào vòng xoáy của cơn bão.
Paul chỉnh cho các cánh sải dài tối đa để bay vút lên, nghe thấy chúng kêu cót két khi bị căng ra hết mức. Cậu dán mắt vào những thiết bị, lướt đi theo bản năng, vật lộn để giành lấy độ cao.
Âm thanh trên đường bay của họ giảm dần.
Con tàu bắt đầu lộn tròn về phía trái, Paul tập trung vào quả cầu phát sáng bên trong cung tròn chỉ độ cao, nỗ lực lái con tàu trở lại hướng nằm ngang.
Jessica có cảm giác kỳ lạ rằng họ vẫn đang đứng yên tại chỗ, tất cả sự chuyển động là của bên ngoài. Một màu nâu vàng mờ ảo tràn tới đập vào cửa sổ, một tiếng kêu xì xì ùng ục nhắc nhở nàng về những sức mạnh thiên nhiên xung quanh họ.
Tốc độ gió cỡ từ bảy trăm đến tám trăm ki lô mét một giờ, nàng nghĩ. Nỗi lo lắng do hoóc môn adrenalin gây ra giày vò nàng. Mình không được hoảng sợ, nàng thầm nhủ rồi nói to những lời trong kinh cầu nguyện Bene Gesserit. Sợ hãi giết chết tâm trí.
Chầm chậm, những năm dài khổ luyện của nàng chiếm được ưu thế.
Sự bình tĩnh quay trở lại.
"Chúng ta leo lên lưng cọp rồi, " Paul thì thầm. "Chúng ta không thể bay xuống, không thể hạ cánh... và con e chúng ta không thể bay vọt lên cao thoát khỏi cơn bão. Chúng ta phải lái tàu vượt qua nó thôi."
Nàng mất hết bình tĩnh. Jessica cảm thấy răng đánh vào nhau lập cập, bèn cắn chặt răng lại. Rồi nàng nghe thấy giọng Paul, khẽ khàng và tự chủ, đang đọc kinh cầu nguyện:
"Sợ hãi giết chết tâm trí. Sợ hãi là cái chết nhỏ mang đến sự phá hủy hoàn toàn. Ta sẽ đối mặt với nỗi sợ. Ta sẽ để nó đi khắp người ta và xuyên qua ta. Rồi khi nó đã đi qua, ta sẽ xoay con mắt bên trong để nhìn đường đi của nó. Ở những nơi nỗi sợ đi qua chẳng còn gì cả. Chỉ còn lại chính ta."
Bạn cần đăng nhập để bình luận