Dune - Xứ Cát

Chương 31

Ý niệm về sự tiến bộ vận hành như một cơ chế phòng vệ nhằm che chắn chúng ta trước những nỗi kinh hoàng của tương lai.
- Trích "Tuyển Dụ ngôn của Muad'Dib" của Công chúa Irulan.
Vào sinh nhật thứ mười bảy, Feyd-Rautha Harkonnen giết chết tay đấu sĩ nô lệ thứ một trăm trong cuộc thi đấu của gia tộc. Có những vị khách từ triều đình - Bá tước Fenring cùng Phu nhân - đang có mặt ở hành tinh quê nhà Giedi Prime của gia tộc Harkonnen để chứng kiến sự kiện này, họ được mời dự khán cùng những nhân vật trọng yếu của gia tộc trong lô danh dự bằng vàng phía trên đấu trường hình tam giác.
Để tỏ lòng trân trọng đối với sự ra đời của vị chuẩn Nam tước và nhắc nhở mọi người trong gia tộc Harkonnen cũng như mọi thần dân rằng Feyd-Rautha là người thừa kế chính thức, hôm nay là ngày lễ trên toàn Giedi Prime. Vị Nam tước già đã ra chiếu chỉ cho phép người lao động từ kinh tuyến này đến kinh tuyến nọ được nghỉ làm; và tại thành phố chôn nhau cắt rốn của gia tộc Harko, người ta ra sức tạo ra ảo tưởng về sự vui vẻ hội hè: cờ bay phấp phới trên các tòa nhà, những bức tường dọc Đường Cung đình được phun sơn mới.
Nhưng bên ngoài con đường chính, Bá tước Fenring cùng phu nhân để ý thấy những đống rác, những bức tường nâu xỉn sần sùi phản chiếu vào những vũng nước đen ngòm trên đường phố, và vẻ nháo nhác có gì đó như vụng trộm của người dân.
Trong thành lũy bọc tường xanh của Nam tước có sự hoàn hảo đến đáng sợ, nhưng Bá tước cùng phu nhân vẫn nhận ra cái giá phải trả để có được điều đó - đâu đâu cũng lính gác, đâu đâu cũng vũ khí, những vũ khí mang cái tia óng ánh đặc biệt mà con mắt sành sỏi sẽ nhận ra rằng chúng được sử dụng thường xuyên. Có những trạm kiểm soát để kiểm tra người qua kẻ lại từ khu vực này sang khu vực kia trong nội bộ lâu đài. Ngay các đầy tớ cũng để lộ ra họ đã được huấn luyện quân sự, qua cách họ đi, qua dáng dấp đôi vai họ... qua cái kiểu cặp mắt họ cứ không ngừng quan sát, quan sát, quan sát mãi.
"Áp lực đang đè nặng, " Bá tước thì thầm với phu nhân bằng thứ mật ngữ của họ. "Nam tước chỉ mới bắt đầu nhận ra cái giá hắn ta phải trả để rũ bỏ Công tước Leto khỏi hắn."
"Lúc nào đó em phải kể lại cho anh truyền thuyết về phượng hoàng, " cô nói.
Họ đang ở trong sảnh lễ tân của lâu đài, đợi đi xem cuộc thi đấu của gia tộc. Sảnh không rộng lắm - có lẽ dài bốn mươi mét và rộng hai mươi mét - song các cây cột giả dọc hai bên tường có đầu cột vuốt thon đột ngột, trần nhà có hình vòm cung tinh tế, tạo ra ảo tưởng một không gian lớn hơn nhiều.
"Ái chà chà, Nam tước tới đây rồi, " Bá tước nói.
Nam tước đang đi dọc theo chiều dài của sảnh lễ tân, với cái dáng đi vừa êm lướt vừa lạch bạch chẳng giống ai do nhu cầu phải dẫn dắt cái trọng lượng được nâng bằng bộ đai treo. Xương hàm ngài bập bềnh lên xuống; các bộ đai treo cứ đong đưa xộc xệch bên dưới tấm áo choàng màu cam. Tay ngài đeo đầy nhẫn lấp lánh, những viên ngọc opafire thêu vào bộ áo choàng sáng lên óng ánh.
Đi sát nách Nam tước là Feyd-Rautha. Mái tóc sẫm màu của cậu vấn thành những lọn tóc quăn dày đặc trông vui mắt dường như không hợp với cặp mắt rầu rĩ. Cậu mặc áo choàng đen thắt ngang lưng ôm sát người, quần chật bó, dưới gấu quần hình như có đính chuông. Đôi giày đế mềm che kín hai bàn chân nhỏ.
Để ý tới tư thế của chàng trai trẻ và chuyển động chắc nịch của cơ bắp dưới tấm áo choàng, Phu nhân Fenring tự nhủ: Đây là người sẽ không để mình bị béo.
Nam tước dừng lại trước mặt họ, vừa nắm cánh tay Feyd-Rautha ra điều sở hữu vừa nói: "Đây là cháu tôi, chuẩn Nam tước Feyd-Rautha Harkonnen." Rồi ngài quay bộ mặt bụ bẫm như con nít về phía Feyd-Rautha mà nói: "Đây là vợ chồng Bá tước Fenring mà ta đã nói với cháu."
Feyd-Rautha khẽ cúi đầu theo nghi thức. Cậu nhìn đăm đăm Phu nhân Fenring. Cô có mái tóc vàng óng, dáng người uyển chuyển, tấm thân hoàn hảo vận chiếc áo chảy dài bằng vải mộc - cách phục trang giản dị phù hợp khi không mang đồ trang sức. Đôi mắt xanh xám nhìn lại cậu. Cô có phong thái ung dung tự tại kiểu Bene Gesserit khiến chàng trai cảm thấy hơi xáo động.
"E hèm, " Bá tước nói. Ông ta săm soi Feyd-Rautha. "Chính, r hèm, chính là chàng trai trẻ này... e hèm... hở ông bạn thân mến?" Bá tước liếc nhìn Nam tước. "Nam tước thân mến, ông bảo ông đã nói cho chính anh bạn trẻ này nghe về chúng tôi sao? Ông đã nói gì?"
"Tôi đã nói với cháu tôi rằng Bá tước Fenring rất được Hoàng đế quý mến, " Nam tước nói. Và ngài nghĩ: Lưu ý hắn ta cho kỹ vào, Feyd! Một tên giết người mang cung cách một con thỏ - đấy chính là loại nguy hiểm nhất.
"Dĩ nhiên rồi!" Bá tước nói, rồi mỉm cười với vợ.
Feyd-Rautha nhận thấy hành vi và lời nói của con người này gần như là xấc xược. Chúng chỉ còn thiếu chút nữa là đi đến chỗ không úp mở khiến người ta dễ nhận ra. Chàng trai trẻ tập trung chú ý vào Bá tước: một người bé nhỏ, trông ẻo lả. Mặt choắt như mặt chồn, cặp mắt màu thẫm thì lại quá to. Hai bên thái dương có tóc bạc. Lại còn cử động của ông ta nữa - ông ta giơ một tay lên hoặc xoay đầu hướng này song khi nói thì lại xoay hướng khác. Khó mà theo dõi được.
"E hèm, ông hiếm khi nói năng được... chính xác đến như thế, " Bá tước nói, mắt ngó qua vai Nam tước. "Tôi, ờ, xin chúc mừng ông về e hèm về sự hoàn hảo của, ờ, của người thừa kế của ông. Dưới ánh sáng của e hèm bậc trưởng thượng, có thể nói vậy."
"Ngài thật tử tế, " Nam tước nói. Ngài cúi mình, nhưng Feyd-Rautha nhận thấy ánh mắt ngài không ăn nhập với cử chỉ lịch thiệp đó.
"Mỗi khi ông e hèm mỉa mai, có nghĩa là ờ ờ ông đang e hèm nghĩ những điều sâu sắc, " Bá tước nói.
Hắn lại thế nữa, Feyd-Rautha nghĩ. Nghe cứ như hắn đang xúc phạm người ta, nhưng người ta chẳng thể nào thách đấu cho thỏa hận.
Nghe người này nói, Feyd-Rautha có cảm giác ai đó đang dúi đầu cậu vào bột nhão...!
Feyd-Rautha chuyển sang chú mục vào Phu nhân Fenring.
"Chúng tôi à ờ đang chiếm quá nhiều thời gian của chàng trai trẻ này, " cô nói. "Tôi hiểu hôm nay cậu ấy sẽ phải ra đấu trường."
So với một mỹ nhân trong hậu cung, cô ả thật đáng yêu! Feyd-Rautha nghĩ. Cậu nói: "Hôm nay tôi sẽ giết một mạng người cho Phu nhân. Tôi sẽ cung hiến điều đó cho Phu nhân trên đấu trường, nếu Phu nhân cho phép."
Cô điềm tĩnh nhìn lại cậu đăm đăm, nhưng giọng cô như một nhát roi quất: "Ta không cho phép cậu."
"Feyd!" Nam tước nói. Và ngài nghĩ: Cái thằng ôn vật! Nó muốn lão Bá tước chết giẫm này thách đấu nó hay sao chớ?
Nhưng Bá tước chỉ mỉm cười mà nói: "E hèm."
"Đúng là cháu phải chuẩn bị cho trận đấu đi, Feyd, " Nam tước nói. "Cháu phải nghỉ ngơi, đừng làm những trò mạo hiểm ngu ngốc."
Feyd-Rautha cúi chào, mặt sạm lại vì phẫn uất. "Cháu tin chắc mọi chuyện sẽ như Người mong muốn, thưa Bá phụ." Cậu gật đầu với Bá tước Fenring. "Thưa Chúa công." Với Phu nhân: "Thưa Phu nhân." Và cậu xoay người, sải bước ra khỏi phòng lễ tân, gần như không thèm liếc sang đám Tiểu Gia tộc đang đứng gần cánh cửa đôi.
"Nó còn trẻ quá, " Nam tước thở dài.
"E hèm, ờ đúng vậy, " Bá tước nói.
Và Phu nhân Fenring nghĩ: Liệu đó có thể là chàng trai trẻ mà Mẹ Chí tôn muốn nói không? Có phải chính đó là dòng máu mà chúng ta phải bảo tồn?
"Còn hơn một giờ nữa chúng ta mới phải ra đấu trường, " Nam tước nói. "Hẳn bây giờ chúng ta có thể trò chuyện một chút, thưa Bá tước Fenring." Ngài nghênh cái đầu đồ sộ sang bên phải. "Tình hình có nhiều tiến triển cần phải thảo luận."
Và Nam tước nghĩ: Giờ ta hãy xem thằng nhãi chạy việc vặt cho Hoàng đế sẽ làm cách nào để trình bày khúc chiết cái thông điệp hắn mang theo mà không đần độn tới mức nói toẹt ra ngay tắp lự.
Bá tước nói với vợ: "E hèm, em cho, à ừm, anh nói chuyện riêng với Nam tước được không, em yêu?"
"Mỗi một ngày, thậm chí có khi mỗi một giờ đều đem lại đổi thay, " cô nói.
"E hèm" Và cô mỉm cười ngọt ngào với Nam tước rồi quay đi. Bộ váy dài cô mặc kêu loạt soạt, và cô bước đi bằng dáng điệu cao sang, lưng thẳng tắp, tiến về phía cánh cửa đôi ở cuối phòng.
Nam tước để ý thấy mọi cuộc chuyện trò của đám Tiểu Gia tộc đứng ở gần đó đều im bặt khi cô lại gần, thấy những cặp mắt dõi theo cô. Bene Gesserit! Nam tước nghĩ. Vũ trụ này sẽ tốt hơn nếu tống khứ được hết bọn họ đi!
"Có một nón lặng giữa hai cây cột ở đằng kia, bên trái chúng ta, " Nam tước nói. "Ta có thể trò chuyện ở đó mà không sợ ai nghe trộm." Ngài lạch bạch dẫn đường về phía khu vực có giảm âm, cảm thấy những tiếng ồn của lâu đài trở nên đùng đục, xa xăm.
Bá tước lại gần đứng cạnh Nam tước, và họ quay lưng lại, đối diện bức tường để không ai đọc được môi họ.
"Bọn ta không hài lòng về cái kiểu ông ra lệnh cho quân Sardaukar rời khỏi Arrakis, " Bá tước nói.
Nói thẳng thừng nhỉ! Nam tước nghĩ.
"Quân Sardaukar không thể nán lại thêm nữa, bằng không những kẻ khác sẽ biết Hoàng đế đã giúp đỡ tôi ra sao, " Nam tước nói.
"Nhưng thằng cháu Rabban của ông không có vẻ gì là đang nỗ lực ráo riết tìm giải pháp cho vấn đề bọn Fremen."
"Hoàng đế muốn gì nào?" Nam tước hỏi. "Chỉ còn một nhúm Fremen sót lại trên Arrakis, không hơn. Sa mạc phía Nam không ở được. Sa mạc phía Bắc thì thường xuyên bị lính tuần của chúng tôi rà soát."
"Ai bảo sa mạc phía Nam không ở được?"
"Chính nhà hành tinh học của ngài nói thế, Bá tước thân mến ạ."
"Nhưng Tiến sĩ Kynes chết rồi."
"À, vâng... thật không may."
"Chúng tôi nhận được báo cáo từ một đội do thám bay trên khu vực phía Nam, " Bá tước nói. "Có bằng chứng là ở đó có cây cỏ mọc."
"Vậy thì Hiệp hội đã chấp thuận quan sát từ trên không chưa?"
"Chuyện đó thì ông biết quá rồi còn gì, Nam tước. Về mặt pháp lý Hoàng đế không thể đặt trạm quan sát Arrakis được."
"Tôi thì cũng không làm được, " Nam tước nói. "Đội bay do thám đó là ai vậy?"
"Một... tàu buôn lậu."
"Ai đó nói dối ngài đấy, thưa Bá tước, " Nam tước nói. "Bọn buôn lậu không thể nào đi lại trên vùng phía Nam giỏi hơn người của Rabban được. Bão tố, nhiễu động cát, lại còn bao nhiêu thứ nữa, ngài biết mà. Các dấu hiệu dẫn đường chưa lắp đặt xong thì đã bị giật đổ mất rồi."
"Chúng ta sẽ bàn về các loại hình nhiễu động vào khi khác, " Bá tước nói.
Ái chà chà, Nam tước nghĩ. "Vậy thì ngài thấy báo cáo của tôi có nhầm lẫn ư?" ngài hỏi.
"Khi ông tưởng tượng ra những sai lầm thì không thể có sự tự vệ nào, " Bá tước nói.
Hắn ta cố ý buộc mình phải giận sôi lên, Nam tước nghĩ. Ngài hít hai hơi dài để tự trấn tĩnh. Ngài ngửi thấy mồ hôi của chính mình, và khung bộ đai treo dưới áo choàng của ngài tự dưng làm ngài ngứa ngáy khó chịu.
"Hoàng đế không thể không vui về cái chết của bà hầu thiếp và thằng bé, " Nam tước nói. "Họ đã trốn vào sa mạc. Một trận bão đã xảy ra."
"Phải, có quá nhiều sự ngẫu nhiên thuận lợi." Bá tước tán thành.
"Tôi không thích giọng điệu ngài, thưa Bá tước, " Nam tước nói.
"Tức giận là một chuyện, bạo lực là chuyện khác, " Bá tước nói. "Để tôi cảnh cáo ông nhé: Nếu tôi gặp bất cứ sự cố không may nào ở đây, tất cả các Đại Gia tộc đều sẽ biết ông đã làm gì trên Arrakis. Từ lâu họ đã hoài nghi cái kiểu làm ăn của ông rồi."
"Vụ làm ăn duy nhất gần đây mà tôi nhớ là chuyên chở vài binh đoàn Sardaukar đến Arrakis, " Nam tước nói.
"Ông nghĩ ông có thể cứ làm như vậy trên đầu Hoàng đế sao?"
"Tôi không hề nghĩ thế!"
Bá tước mỉm cười. "Người ta có thể tìm được những chỉ huy Sardaukar sẵn sàng thú nhận họ hành động không có lệnh trên bởi họ muốn đánh nhau với lũ khốn Fremen nhà ông."
"Nhiều người có thể nghi ngờ một lời thú nhận như vậy, " Nam tước nói, nhưng lời đe dọa đó khiến ngài choáng váng. Bọn Sardaukar có kỷ luật đến thế thật sao? ngài tự hỏi.
"Hoàng đế muốn cho kiểm toán sổ sách của ông, " Bá tước nói.
"Lúc nào cũng được."
"Ông... ờ... không phản đối à?"
"Không. Ban giám đốc Công ty Choam của tôi sẽ chấp nhận sự kiểm tra nghiêm ngặt nhất." Và ngài nghĩ: Cứ để hắn đưa ra một lời buộc tội dối trá chống lại ta và để cho nó bị vạch trần. Ta sẽ đứng đó, vững như bàn thạch mà nói: "Nhìn tôi xem, tôi đã bị vu oan giá họa." Thế rồi cứ để hắn buộc tội ta lần nữa, thậm chí là buộc tội đúng. Các Đại Gia tộc sẽ không còn tin ở lời buộc tội thứ hai của một kẻ từng bị chứng minh là vu oan kẻ khác.
"Nhất định sổ sách của các ông sẽ bị kiểm tra hết sức nghiêm ngặt, " Bá tước lẩm bẩm.
"Tại sao Hoàng đế lại quan tâm đến việc hủy diệt người Fremen đến thế?" Nam tước hỏi.
"Ông muốn đổi chủ đề hử?" Bá tước nhún vai. "Ấy là bọn Sardaukar muốn, chứ không phải Hoàng đế muốn. Chúng cần phải thực tập việc giết người... với lại chúng rất ghét phải thấy một nhiệm vụ dang dở."
Hắn nghĩ sẽ làm ta sợ bằng cách nhắc ta rằng hắn được những tên giết người khát máu ủng hộ sao? Nam tước tự hỏi.
"Xưa nay giết chóc ở mức độ nhất định luôn luôn là một phần quan trọng của kinh doanh, " Nam tước nói, "nhưng phải vạch ra giới hạn ở đâu đó. Vẫn phải để lại ai đó để khai thác hương dược chứ."
Bá tước bật ra một tiếng cười lớn cộc lốc. "Ông nghĩ ông có thể điều khiển được lũ Fremen à?"
"Bọn chúng chưa bao giờ đủ đông để làm việc đó, " Nam tước nói. "Nhưng việc giết chóc đã khiến cho số dân còn lại của tôi ăn không ngon ngủ không yên. Nó đã lên đến mức khiến tôi phải cân nhắc một giải pháp khác để giải quyết vấn nạn Arrakis, Bá tước Fenring thân mến ạ. Và tôi phải thừa nhận rằng Hoàng đế xứng đáng được coi là người đã gợi cho tôi ý tưởng này."
"Hử?"
"Ngài thấy đấy, Bá tước, tôi có hành tinh giam tù của Hoàng đế, Salusa Secundus, làm nguồn gợi ý cho tôi."
Bá tước nhìn trừng trừng ông ta, mắt sáng quắc. "Giữa Arrakis với Salusa Secundus thì có thể có mối liên hệ nào chứ?"
Nam tước cảm thấy sự cảnh giác trong ánh mắt Bá tước, liền nói: "Chưa có mối liên hệ nào."
"Chưa ư?"
"Ngài phải thừa nhận rằng đó hẳn là cách phát triển một lực lượng lao động đông đảo trên Arrakis - sử dụng nơi này làm một hành tinh giam tù."
"Ông dự đoán số tù nhân sẽ tăng lên sao?"
"Đã có những cuộc bạo loạn, " Nam tước thừa nhận. "Tôi đã phải bóp chết chúng khá là tàn nhẫn, Fenring ạ. Nói gì thì nói, ngài biết cái giá tôi phải trả cho đám Hiệp hội chết giẫm kia để họ chuyển quân đội chung của chúng ta đến Arrakis. Khoản tiền đó phải từ đâu đó mà ra chứ."
"Tôi đề nghị ông không dùng Arrakis làm hành tinh giam tù nếu không được Hoàng đế cho phép, Nam tước ạ."
"Dĩ nhiên là không, " Nam tước nói, và ngài tự hỏi tại sao giọng của Bá tước bỗng dưng lạnh nhạt thế.
"Còn một chuyện khác, " Bá tước nói. "Chúng tôi được biết Mentat của Công tước Leto là Thufir Hawat không chết mà đang được ông dùng."
"Tôi không thể cho phép mình bỏ phí ông ta, " Nam tước nói.
"Ông đã nói dối chỉ huy Sardaukar của chúng tôi rằng Hawat đã chết."
"Chỉ là nói dối vô hại thôi, Bá tước kính mến. Tôi chẳng có bụng dạ nào đôi co dông dài với anh ta."
"Hawat có phải kẻ phản bội thật không?"
"Ồ, lạy chúa, không! Chính tay bác sĩ phản trắc kia mới là kẻ phản bội." Nam tước lau mồ hôi trên cổ. "Ngài phải hiểu, Fenring ạ, vừa rồi tôi không có Mentat. Ngài biết mà. Xưa nay tôi chưa bao giờ không có Mentat cả. Đó là điều tôi bứt rứt hơn hết."
"Làm cách nào ông khiến Hawat chuyển lời thệ nguyện trung thành sang kẻ khác được?"
"Công tước của ông ta đã chết." Nam tước gượng cười. "Chẳng có gì phải sợ Hawat cả, thưa Bá tước kính mến. Thịt tay Mentat đó đã bị cấy một độc dược ngầm. Cứ mỗi bữa ăn chúng tôi lại cho một liều giải độc vào thức ăn của ông ta. Nếu không có thuốc giải, độc dược sẽ phát tác và trong vòng vài ngày ông ta sẽ chết."
"Đừng cho thuốc giải nữa, " Bá tước nói.
"Nhưng ông ta có ích!"
"Và ông ta biết quá nhiều điều mà những kẻ còn sống không nên biết."
"Ngài đã nói Hoàng đế không sợ bị vạch mặt cơ mà."
"Đừng đùa với tôi, Nam tước!"
"Khi nào tôi thấy có chỉ dụ mang dấu triện của Hoàng đế, tôi sẽ tuân theo, " Nam tước nói. "Nhưng ý thích bốc đồng của ngài thì tôi không phục tùng đâu."
"Ông cho đó là ý thích bốc đồng sao?"
"Chứ còn sao nữa? Hoàng đế cũng nợ tôi mà, Fenring. Tôi đã giúp ông ta thoát khỏi tên Công tước rầy rà đó."
"Nhờ một vài tên Sardaukar giúp đỡ."
"Nếu không thì Hoàng đế tìm đâu ra một Gia tộc sẵn sàng cung cấp quân phục giả trang để giấu biến bàn tay ông ta trong vụ này?"
"Hoàng đế cũng tự hỏi mình y như vậy, Nam tước à, nhưng với sự nhấn giọng hơi khác."
Nam tước săm soi Fenring, chú ý tới sự rắn đanh của các cơ hàm, sự cẩn thận tự chủ. "Ái chà chà, " Nam tước nói. "Tôi hy vọng Hoàng đế không tin rằng ông ta có thể hành động chống lại tôi một cách hoàn toàn bí mật."
"Hoàng đế hy vọng sẽ không cần phải làm thế."
"Hoàng đế không thể tin rằng tôi đe dọa ông ta, " Nam tước cho phép giọng mình nhuốm vẻ tức giận và đau khổ, ngài nghĩ: Cứ để ông ta cư xử bất công với ta về chuyện đó! Ta có thể tự đặt mình lên ngai vàng trong khi vẫn đấm ngực than van mình đã bị cư xử bất công đến thế nào.
Giọng Bá tước trở nên khô khan và xa xôi khi ngài nói: "Hoàng đế tin ở những gì giác quan mách bảo người."
"Hoàng đế có dám buộc tội tôi mưu phản trước mặt đông đủ Hội đồng Landsraad không?" Và Nam tước nín thở, hy vọng vào điều mình nói.
"Hoàng đế không cần phải dám mới làm bất cứ chuyện gì."
Nam tước quay ngoắt thân hình trong bộ khung treo để giấu cảm xúc. Chuyện ấy có thể xảy ra ngay trong đời ta! ngài nghĩ. Hoàng đế! Cứ để ông ta đối xử bất công với ta đi! Thế rồi - tham nhũng, áp bức, sự tập hợp của các Đại Gia tộc: họ sẽ lũ lượt tề tựu dưới cờ của ta như bọn nhà nông hộc tốc tìm chỗ trú. Điều họ sợ hơn hết thảy là đoàn quân Sardaukar của Hoàng đế được tự tung tự tác lần lượt với từng Gia tộc một.
"Hoàng đế chân thành mong rằng Người sẽ không bao giờ phải buộc ông tội mưu phản, " Bá tước nói.
Nam tước thấy khó lòng ngăn không để giọng mình nhuốm vẻ mỉa mai mà chỉ cho phép nó biểu lộ cảm giác bị tổn thương, nhưng ngài vẫn cố. "Tôi vẫn luôn là bầy tôi trung thành nhất. Những lời đó khiến tôi đau lòng đến không thể nói nên lời."
"E hèm, " Bá tước nói.
Nam tước vẫn quay lưng lại Bá tước, gật đầu. Ngay sau đó ngài nói: "Đến lúc ra đấu trường rồi."
"Ừ, đúng, " Bá tước nói.
Họ ra khỏi nón lặng, sánh bước về phía đám Tiểu Gia tộc đang đứng ở cuối phòng. Một tiếng chuông bắt đầu đổ chầm chậm đâu đó trong lâu đài - báo hiệu còn hai mươi phút nữa là đến giờ tập trung ở đấu trường.
"Các Tiểu Gia tộc chờ ông dẫn đường cho họ, " Bá tước vừa nói vừa gật đầu về phía đám người trước mặt.
Một câu hai nghĩa... một câu hai nghĩa, Nam tước nghĩ.
Ngài ngẩng lên nhìn những món bùa hộ mệnh mới đặt hai bên lối ra của phòng tiếp tân - chiếc đầu bò gắn trên giá và bức tranh sơn dầu vẽ Lão Công tước Atreides, phụ thân của Công tước Leto quá cố. Chúng khiến Nam tước tràn ngập một linh tính chẳng lành, và ngài tự hỏi những món bùa này đã khơi gợi trong Công tước Leto những ý nghĩ nào khi chúng còn treo trong đại sảnh ở Caladan rồi sau đó ở Arrakis - người cha anh tài dũng lược và đầu của con bò đã giết chết ông ta.
"Loài người chỉ có ừ một ừm môn khoa học, " Bá tước nói khi hai người đã tập hợp xong đám diễu hành gồm những kẻ theo chân họ và từ sảnh tiếp tân tiến vào phòng đợi, một không gian hẹp với những khung cửa sổ cao và sàn lát gạch có hoa văn màu trắng xen màu tía.
"Vậy khoa học đó là gì?" Nam tước hỏi.
"Đó là ừm khoa học về ờ ờ sự bất mãn, " Bá tước nói.
Các Tiểu Gia tộc đi sau họ, bẽn lẽn, sun xoe, phá lên cười bằng đúng giọng tỏ ra tâm đắc, nhưng cái âm thanh đó mang thanh điệu nghịch tai khi va chạm với tiếng động cơ phành phạch bất ngờ vọng đến tai họ khi đám tiểu đồng mở tung các cửa ngoài, để lộ một dãy xe dùng để chạy trên mặt đất, cờ hiệu bay phần phật trong gió.
Nam tước cất cao giọng để át tiếng ồn đột ngột, ngài nói: "Tôi hy vọng ngài sẽ không bất mãn với màn trình diễn hôm nay của cháu tôi, Bá tước Fenring ạ."
"Tôi, à ờ, chỉ thấy như linh cảm một điều gì, đúng vậy, " Bá tước nói. "Bao giờ cũng vậy, trong một à ờ biên bản luận tội, người ta ừm phải xét đến việc đâu là à, ờ, nơi khởi tạo hồ sơ."
Nam tước che giấu sự ngạc nhiên khiến ngài đột ngột đờ người ra bằng cách vấp vào bậc tam cấp đầu tiên dẫn từ lối ra xuống. Biên bản luận tội! Đó là bản báo cáo về một tội ác chống lại Đế quốc!
Nhưng Bá tước chỉ khẽ cười để câu đó có vẻ như một lời nói đùa, rồi vỗ vỗ vào tay Nam tước.
Dù vậy, suốt trên đường đến đấu trường, Nam tước ngồi thụt vào giữa mớ đệm bọc sắt trên xe ngài, vừa ném những cái nhìn vụng trộm về phía vị Bá tước đang ngồi cạnh vừa tự hỏi tại sao thằng chạy việc vặt của Hoàng đế lại cho rằng cần phải đùa kiểu đó chứ không phải kiểu nào khác trước mặt các Tiểu Gia tộc. Rõ ràng Fenring chẳng mấy khi làm việc gì hắn cho rằng không cần thiết, hoặc dùng hai từ nếu hắn thấy một từ là đủ, hoặc tự giới hạn ở một nghĩa duy nhất trong một câu duy nhất.
Họ vừa ngồi vào lô bằng vàng phía trên đấu trường tam giác - kèn rúc om sòm, các tầng ở trên và xung quanh họ ken dày sự ồn ào huyên náo của đám đông và những lá cờ hiệu bay phấp phới - thì câu trả lời cất lên đáp lại Nam tước.
"Nam tước thân mến, " Bá tước ghé sát tai ông ta, nói, "ông biết Hoàng đế chưa chính thức chuẩn y người thừa kế do ông chọn mà, phải không?"
Nam tước cảm thấy mình đột nhiên rơi vào giữa một cái nón lặng cá nhân sinh ra từ cơn choáng của chính ngài. Ngài nhìn Fenring chòng chọc, gần như không thấy Bá tước phu nhân đang băng qua đội cận vệ bên ngoài để đến nhập hội với họ trong lô bằng vàng.
"Chính vì vậy tôi mới ở đây hôm nay, " Bá tước nói. "Hoàng đế muốn tôi báo cáo về việc liệu ông có chọn người kế vị xứng đáng hay không. Để khiến con người thực ẩn dưới cái mặt nạ phải phơi bày thì chẳng có gì hơn đấu trường được, hử?"
"Hoàng đế đã hứa cho phép tôi tự do chọn người kế vị, " Nam tước nghiến răng kèn kẹt.
"Để rồi xem, " Fenring nói rồi quay người lại đón phu nhân. Cô ngồi xuống, mỉm cười với Nam tước, rồi chú mục vào nền cát bên dưới nơi Feyd-Rautha vừa tiến ra, mặc áo gi lê và quần bó - tay phải mang găng đen cầm dao dài, còn tay trái mang găng trắng cầm dao ngắn.
"Màu trắng là độc dược, màu đen là tinh khiết, " Phu nhân Fenring nói. "Phong tục thú vị thật, phải không anh yêu?"
"Ừm, " Bá tước nói.
Tiếng reo hò chào đón dậy lên từ các dãy khán đài dành cho gia tộc, và Feyd-Rautha dừng lại để đón nhận, ngẩng lên nhìn khắp lượt các khuôn mặt, nhận ra các anh chị em họ, các anh em cùng cha khác mẹ, họ hàng bên các bà tì thiếp và những họ hàng xa. Quá nhiều những cái miệng hồng hồng há ra lải nhải liên hồi kỳ trận giữa cảnh chập chờn quần áo và cờ xí đủ màu.
Ngay khi đó Feyd-Rautha chợt nghĩ, dù máu cậu hay máu tên đấu sĩ nô lệ kia đổ xuống thì những hàng khuôn mặt ken dày kia cũng sẽ háo hức như nhau. Chẳng nghi ngờ gì về kết quả trận đấu này, dĩ nhiên. Sự nguy hiểm ở đây chỉ có hình thức chứ không mang thực chất, thế nhưng...
Feyd-Rautha giơ dao về phía mặt trời, cúi chào ba góc đấu trường theo lối cổ. Con dao ngắn trong bàn tay mang găng trắng (màu trắng là dấu hiệu cho biết có độc dược) được cho vào vỏ trước tiên. Rồi lưỡi dao dài trong bàn tay mang găng đen - lưỡi dao tinh khiết mà bây giờ thực ra không tinh khiết, cái vũ khí bí mật của cậu để biến ngày hôm nay thành một chiến thắng thuần túy của cá nhân cậu: lưỡi dao đen mới có độc.
Việc điều chỉnh tấm chắn bảo vệ cơ thể chỉ mất chút thời gian, và cậu ngừng lại để lĩnh hội cảm giác thít chặt vào trán, khiến cậu yên tâm rằng mình đã được bảo vệ đâu ra đó.
Khoảnh khắc này mang sự căng thẳng của riêng nó, và Feyd-Rautha kéo dài nó ra với bàn tay chắc nịch của một tay diễn trò lão luyện, gật đầu với các trợ thủ và chuyên viên đánh lạc hướng, kiểm tra thiết bị của họ bằng cái nhìn xét đoán - những sợi xiềng đặt đúng chỗ, các gai của nó sắc lẻm, lấp lánh, những cái ngạnh và móc có buộc những dải cờ đuôi nheo màu xanh nước biển bay phấp phới.
Feyd-Rautha ra hiệu cho các nhạc công.
Điệu hành khúc chậm bắt đầu, vang rền trịnh trọng theo lối xưa, và Feyd-Rautha dẫn đầu đoàn tùy tùng băng qua đấu trường để kính cẩn cúi chào dưới lô danh dự nơi ông bác của cậu ngồi. Cậu tóm lấy chiếc chìa khóa nghi lễ khi nó được ném xuống.
Âm nhạc ngừng.
Trong im lặng đột ngột, cậu lùi lại hai bước, nâng chìa khóa lên mà thét vang. "Tôi xin dâng sự thật này cho..." Và cậu ngừng lại, biết rằng ông bác sẽ nghĩ: Rốt cuộc cái thằng ranh rồ dại sắp dâng cho Phu nhân Fenring và gây chuyện động trời đây!
"... cho Bá phụ và người bảo trợ của tôi, Nam tước Vladimir Harkonnen!" Feyd-Rautha thét.
Và cậu vui sướng thấy ông bác thở dài.
Âm nhạc lại tiếp tục với hành khúc nhanh, và Feyd-Rautha dẫn bộ hạ rảo bước ngang qua đấu trường về phía cánh cửa an toàn chỉ dành cho những ai đeo dải băng nhận diện theo đúng quy định. Feyd-Rautha tự hào rằng cậu chưa bao giờ dùng tới cửa an toàn và chẳng mấy khi cần tới các chuyên viên đánh lạc hướng đối thủ. Nhưng riêng hôm nay biết rằng cửa an toàn có đó thì cũng tốt - đôi khi những kế hoạch đặc biệt cũng hàm chứa những nguy cơ đặc biệt.
Một lần nữa, im lặng trùm xuống đấu trường.
Feyd-Rautha quay lại, đối mặt với cánh cửa lớn màu đỏ đối diện, nơi tay đấu sĩ sẽ xuất hiện.
Đấu sĩ đặc biệt.
Kế hoạch mà Thufir Hawat nghĩ ra đơn giản và rạch ròi đến đáng khâm phục, Feyd-Rautha nghĩ. Không nên phục thuốc cho tên nô lệ - làm vậy là nguy hiểm. Thay vào đó, người ta đã nhồi vào vô thức của y một từ khóa để làm các cơ của y tê liệt đúng vào khoảnh khắc quyết định. Feyd-Rautha nhẩm đi nhẩm lại trong đầu cái từ sống còn ấy, thốt nó ra không thành tiếng: "Đồ cặn bã!" Với khán giả, dường như đó là một tên nô lệ không bị phục thuốc đã được thả vào đấu trường để giết vị chuẩn Nam tước. Và toàn bộ các bằng chứng được dàn xếp cẩn thận sẽ làm người ta hướng mọi chú ý đến lão chủ nô.
Một tiếng rì rầm khe khẽ phát ra từ những mô tơ phụ của cánh cửa đỏ khi chúng được lệnh mở cửa.
Feyd-Rautha tập trung toàn bộ ý thức vào cánh cửa. Khoảnh khắc đầu tiên này là khoảnh khắc hệ trọng. Dáng điệu của đấu sĩ lúc y xuất hiện sẽ cho kẻ có con mắt sành sỏi biết rất nhiều điều anh ta cần biết. Theo lẽ thì mọi đấu sĩ đều phải được phục sẵn thuốc elacca để khi bước vào đấu trường là lập tức vào tư thế chiến đấu, sẵn sàng giết chóc - nhưng bạn cũng phải quan sát y huơ dao ra sao, y xoay người phòng thủ thế nào, liệu y có thật sự ý thức được về khán giả đang ngồi trên khán đài không. Cách nghênh đầu của một tên nô lệ cũng cho ta biết được mấu chốt sống còn để phản công và đánh nhử.
Cánh cửa đỏ mở toang ra.
Một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ lừng lững tiến ra, đầu cạo trọc, cặp mắt tối trũng sâu. Da y có màu cà rốt đúng như một người được cho uống thuốc elacca, nhưng Feyd-Rautha biết đó chỉ là màu sơn. Tên nô lệ mặc quần áo nịt màu xanh lục và thắt lưng đỏ cho biết y mang một nửa tấm chắn - mũi tên trên thắt lưng chỉ sang trái, cho biết phía bên trái của tên nô lệ được bảo vệ bằng tấm chắn. Y cầm dao theo kiểu cầm gươm, hơi chếch ra phía ngoài theo tư tế một chiến binh được rèn luyện kỹ. Chầm chậm, y tiến vào đấu trường, xoay phía thân mình được che chắn về phía Feyd-Rautha và nhóm người đứng nơi cửa an toàn.
"Tôi không ưa bộ dạng thằng này, " một trong những thuộc hạ cầm ngạnh của Feyd-Rautha nói. "Ngài có chắc là hắn bị phục thuốc không, thưa Thiếu chủ?"
"Hắn có màu cà rốt, " Feyd-Rautha nói.
"Nhưng hắn đứng như một chiến binh, " một trợ thủ khác nói.
Feyd-Rautha tiến hai bước vào nền cát, quan sát kỹ tên nô lệ.
"Hắn làm gì cánh tay hắn vậy?" một trong những người chuyên đánh lạc hướng hỏi.
Feyd-Rautha chuyển sự chú ý sang vết trầy ứa máu ở cẳng tay trái của tên nô lệ, kéo dài dọc cánh tay xuống bàn tay như thể muốn trỏ vào một hình vẽ bằng máu trên mạn sườn trái của bộ đồ bó sát màu xanh lục - một hình thể ướt nhẫy ở đó: đường viền theo kiểu nghi thức hóa của một con chim ưng.
Chim ưng!
Feyd-Rautha nhìn lên cặp mắt trũng sâu tối sẫm, nhận thấy chúng nhìn cậu ta chằm chằm một cách tỉnh táo khác thường.
Đây là một trong những chiến binh của Công tước Leto mà chúng ta bắt được trên Arrakis, Feyd-Rautha nghĩ. Tay này không phải một đấu sĩ thường! Một cảm giác ớn lạnh chạy khắp người cậu, và cậu tự hỏi liệu Hawat có kế hoạch nào khác cho trận đấu này không - một đòn nhử bên trong đòn nhử trong đòn nhử. Và chỉ có kẻ chủ nô là được chuẩn bị sẵn sàng để hứng lấy trách nhiệm.
Trợ thủ chính của Feyd-Rautha thì thầm vào tai cậu: "Tôi không ưa bộ dạng thằng này, Thiếu chủ ạ. Hãy để tôi cắm một, hai cái ngạnh vào tay hắn để thử hắn."
"Ta sẽ tự cắm ngạnh lấy, " Feyd-Rautha nói. Cậu cầm một cặp mũi tên dài có móc từ tay viên trợ thủ, huơ lên để thử thế cân bằng của chúng. Những cái ngạnh đó cũng thường được tẩm độc - nhưng lần này thì không, và tay trợ thủ chính có thể mất mạng vì điều đó. Nhưng đây là chuyện nằm trong kế hoạch.
"Sau trận này Thiếu chủ sẽ là một người hùng, " Hawat đã nói. "Giết bọn đấu sĩ hết người này đến người khác bất chấp có sự phản trắc. Tay chủ nô sẽ bị hành hình và thuộc hạ của Thiếu chủ sẽ thế chỗ y."
Feyd-Rautha tiến thêm năm bước vào sàn đấu, kéo dài thời gian để nghiên cứu tên nô lệ. Cậu biết, các chuyên gia ngồi ở khán đài trên đầu cậu đã nhận ra có gì đó không ổn. Tên đấu sĩ đúng là có màu da như một kẻ đã bị phục thuốc, thế nhưng y đứng thẳng, không hề run. Những kẻ cuồng nhiệt lúc này hẳn đang thì thầm với nhau: "Xem cái kiểu hắn đứng kìa. Lẽ ra hắn phải kích động - hoặc tấn công hoặc thụt lùi mới phải chứ. Xem cái kiểu hắn giữ sức kìa, cái kiểu hắn đợi kìa. Đáng lẽ hắn không được đợi."
Feyd-Rautha cảm thấy sự phấn khích của chính cậu bắt đầu nhen nhóm. Cứ mặc cho Hawat có mưu đồ phản trắc đi, cậu nghĩ. Ta có thể xử thằng nô lệ này. Lần này chính con dao dài của ta mới tẩm thuốc độc chứ không phải con dao ngắn. Điều đó thì ngay cả Hawat cũng không biết.
"Này, tên Harkonnen, " tên nô lệ thét. "Mi đã sẵn sàng chết chưa?"
Toàn đấu trường chết lặng. Bọn nô lệ đâu phải kẻ thách đấu!
Giờ thì Feyd-Rautha đã thấy rõ cặp mắt tên đấu sĩ, thấy sự dữ dằn lạnh lẽo vì tuyệt vọng trong đó. Cậu lưu ý cách tên nô lệ đứng, vừa buông lỏng vừa sẵn sàng hành động, các cơ bắp sẵn sàng cho chiến thắng. Nguồn tin mật của Hawat đã chuyển thông tin của vị Mentat tới tên này: "Mi sẽ có một cơ hội thực sự để giết chuẩn Nam tước." Cái mưu đồ họ vạch ra hẳn là đến mức như vậy đó.
Một nụ cười mím chặt vắt chéo qua môi Feyd-Rautha. Cậu nâng hai thanh giáo lên, nhìn thấy những kế hoạch của cậu sẽ thành công qua cách đứng của tên đấu sĩ.
"Tới đi, nào, tới đi!" tên nô lệ thách thức, và dấn tới hai bước.
Giờ thì không một ai trên khán đài có thể nhầm được, Feyd-Rautha nghĩ.
Tên nô lệ này lẽ ra phải bị tê liệt một phần vì nỗi khiếp sợ do thuốc elacca gây ra. Mỗi cử động của y lẽ ra phải cho thấy rằng tự trong thâm tâm y biết y chẳng có chút hy vọng gì - y không thể thắng được. Lẽ ra y phải bị nhồi nhét đầy những câu chuyện về các loại thuốc độc mà chuẩn Nam tước đã chọn tẩm vào lưỡi dao bên tay mang găng trắng của ngài. Chuẩn Nam tước không bao giờ cho y chết nhanh chóng; ngài khoái trá trong việc trưng ra những độc dược quý hiếm, ngài có thể đứng giữa đấu trường mà chỉ ra những hiệu ứng phụ thú vị của chúng trên một nạn nhân đang giãy chết. Sợ thì tên nô lệ có sợ, phải - nhưng khiếp đảm thì không.
Feyd-Rautha nâng cao những thanh giáo lên, gật đầu theo cách gần như chào đối thủ.
Tên đấu sĩ xông tới.
Đòn nhử và đòn đỡ của y tốt ngang với bất cứ đòn nào Feyd-Rautha từng thấy. Một đòn tạt mạng sườn đúng lúc chỉ thiếu chút nữa là cắt đứt dây chằng cánh tay trái của chuẩn Nam tước.
Feyd-Rautha thoắt vùng thoát, để lại một mũi tên có ngạnh trên cánh tay phải tên nô lệ, những cái móc nhọn cắm sâu vào thịt ở nơi mà nếu rút chúng ra thì tên nô lệ sẽ làm đứt dây chằng.
Một tiếng thở hắt ra vang lên đều nhịp từ phía các khán đài.
Âm thanh đó khiến Feyd-Rautha tràn ngập hân hoan.
Cậu biết giờ thì ông bác đang cảm thấy gì trong khi ngồi trên kia cạnh vợ chồng Bá tước Fenring, những quan sát viên do Triều đình cử tới. Không thể can thiệp gì vào trận đấu này. Các nghi thức phải được tôn trọng khi có người chứng kiến. Và Nam tước hẳn sẽ hiểu những gì xảy ra trên đấu trường chỉ theo một cách - mối đe dọa với chính ông ta.
Tên nô lệ lùi lại, ngậm con dao giữa hai hàm răng rồi quấn dải cờ đuôi nheo buộc mũi tên có ngạnh vào cánh tay. "Tao chả cảm thấy gì về cú kim châm của mày hết, " y thét. Rồi y lại chồm tới, dao trong tay, bên trái phô ra, người ưỡn về phía sau để tăng tối đa diện tích được che chắn bởi phân nửa tấm khiên.
Hành vi đó cũng không thoát khỏi mắt khán giả. Những tiếng kêu the thé vang lên từ các lô dành cho người trong gia tộc. Đám trợ thủ của Feyd-Rautha kêu to hỏi cậu có cần họ không.
Cậu phẩy tay bảo họ lùi về phía cửa an toàn.
Ta sẽ cho họ một màn trình diễn họ chưa bao giờ được thấy, Feyd-Rautha nghĩ. Không phải trò giết chóc dễ dàng nhạt nhẽo mà họ có thể ngả lưng vào ghế khoái chí thưởng thức phong cách đấu. Đây sẽ là thứ rút sạch ruột gan họ, khiến họ phải quặn mình đau đớn. Khi ta lên làm Nam tước họ sẽ nhớ cái ngày này và không ai trong số họ còn dám không sợ ta chính bởi cái ngày này.
Feyd-Rautha từ từ nhường bước trước đà tiến kiểu như con cua của tên đấu sĩ. Cát trên sàn đấu xào xạo dưới chân. Cậu nghe tiếng thở phì phò của tên nô lệ, ngửi thấy mùi mồ hôi của mình và mùi máu thoang thoảng trong không khí.
Bình tĩnh, chuẩn Nam tước lùi lại, quay sang phải, chiếc ngạnh nhọn thứ hai đã sẵn sàng. Tên nô lệ nhảy sang bên. Feyd-Rautha có vẻ như bị vấp, nghe thấy tiếng thét vang lên từ các khán đài.
Một lần nữa, tên nô lệ nhảy bổ tới.
Trời ạ, một chiến binh thật cừ khôi! Feyd-Rautha nghĩ trong khi nhảy sang bên để tránh. Chỉ nhờ sự nhanh nhẹn của tuổi trẻ mà cậu mới thoát chết, nhưng cậu cũng đã kịp cắm sâu cái ngạnh thứ hai vào cơ đen ta trên tay phải tên nô lệ.
Những tiếng reo hò đinh tai nhức óc dậy lên từ các khán đài.
Giờ thì họ hoan hô ta, Feyd-Rautha nghĩ. Cậu nghe thấy sự cuồng nhiệt trong những giọng reo hò, đúng như Hawat nói. Trước nay họ chưa hề hoan hô một chiến binh của gia tộc mình như vậy bao giờ. Và cậu nghĩ với một sự kích động tàn nhẫn về một điều Hawat đã nói với cậu: "Một kẻ thù mà ta khâm phục thì dễ làm ta khiếp sợ hơn nhiều."
Nhanh như cắt, Feyd-Rautha lùi về giữa đấu trường nơi mọi người đều thấy rõ. Cậu rút con dao dài ra, cúi mình đợi tên nô lệ đang tiến lại gần.
Tên nô lệ chỉ mất thời gian để buộc chặt cái ngạnh thứ hai vào cánh tay, rồi lại nhanh chóng sấn tới.
Cứ để cả gia tộc thấy ta làm việc này, Feyd-Rautha nghĩ. Ta là kẻ thù của họ: cứ để họ nghĩ về ta như họ thấy lúc này.
Cậu rút con dao ngắn ra.
"Tao không sợ mày, đồ lợn Harkonnen, " tên đấu sĩ nói. "Những trò tra tấn của mày không thể làm đau một kẻ đã chết. Tao có thể chết vì lưỡi dao của chính tao trước khi một tên trợ thủ có thể đụng ngón tay vào xác tao. Và tao sẽ buộc mày phải chết cạnh tao!"
Feyd-Rautha nghiến răng, giờ thì giơ con dao dài, con dao có độc dược, ra. "Thử cái này xem, " cậu nói, rồi ra đòn nhử bằng con dao ngắn bên tay kia.
Tên nô lệ đổi tay cầm dao, xoay người lách vào giữa động tác gạt đỡ và đòn nhử của Feyd-Rautha hòng túm lấy lưỡi dao ngắn của Feyd-Rautha - lưỡi dao trong bàn tay đeo găng trắng mà theo truyền thống là dao tẩm độc.
"Mày sẽ chết, thằng Harkonnen kia, " tên đấu sĩ hổn hển nói.
Họ di chuyển sang một bên đấu trường. Khi tấm chắn của Feyd-Rautha chạm phải tấm chắn phân nửa của tên nô lệ, một ánh xanh lục lóe lên đánh dấu chỗ tiếp xúc. Không khí quanh họ sực mùi ô zôn từ trường bảo vệ.
"Chết bằng thuốc độc của chính mày đi!" tên nô lệ nghiến răng kèn kẹt.
Y bắt đầu ép bàn tay đeo găng trắng hướng vào trong, nhằm chuyển hướng lưỡi dao mà y cho là mang độc dược.
Cứ để họ thấy trò này! Feyd-Rautha nghĩ. Cậu hạ lưỡi dao dài xuống, cảm thấy nó dính chặt một cách vô dụng vào mũi tên có ngạnh buộc chặt vào tay tên nô lệ.
Feyd-Rautha cảm thấy một khoảnh khắc tuyệt vọng. Cậu không hề nghĩ rằng những mũi tên có ngạnh sẽ có thể là lợi thế cho tên nô lệ. Thế nhưng nhờ chúng mà tên nô lệ có thêm một tấm chắn nữa. Lại còn sức lực của tên đấu sĩ này nữa chứ! Lưỡi dao ngắn bị ép hướng vào bên trong một cách không cưỡng được, và Feyd-Rautha tập trung tinh thần vào cái thực tế rằng người ta cũng có thể chết vì lưỡi dao không tẩm độc.
"Đồ cặn bã!" Feyd-Rautha hổn hển.
Khi nghe từ khóa, cơ bắp tên đấu sĩ tuân lời, lập tức chùng xuống. Chừng đó là đủ cho Feyd-Rautha. Cậu lùi lại, tạo khoảng cách giữa hai người vừa đủ cho lưỡi dao dài. Mũi dao tẩm độc vung nhẹ, vạch một đường màu đỏ xuống ngực tên nô lệ. Độc dược này gây hấp hối trong nháy mắt. Tên nô lệ rũ người, lảo đảo ngả về phía sau.
Giờ thì cứ để gia tộc yêu quý của ta quan sát, Feyd-Rautha nghĩ. Cứ để họ nghĩ về thằng nô lệ này, kẻ đã cố đẩy lùi con dao mà y nghĩ là có tẩm độc rồi dùng nó để hạ ta. Cứ để họ tự hỏi làm thế nào một tên đấu sĩ bước vào đấu trường này lại sẵn sàng mưu toan làm chuyện như thế được. Và cứ để họ luôn ý thức được rằng họ không thể nào biết chắc tay nào của ta mang độc dược.
Feyd-Rautha đứng lặng thinh, quan sát những cử động giờ đã chậm lại của tên nô lệ. Y cử động trong một nhận thức ngắc ngứ. Giờ đây trên mặt y có một thứ hiện lên rõ mồn một mà bất cứ ai quan sát cũng nhận ra. Cái chết được ghi rành rành ở đó. Tên nô lệ biết người ta đã làm điều đó với y, và y biết nó được làm như thế nào. Chính lưỡi dao tưởng không tẩm độc là lưỡi dao tẩm độc.
"Mày, " gã đàn ông rên rỉ.
Feyd-Rautha lùi lại nhường chỗ cho cái chết. Độc dược gây tê liệt vẫn chưa phát tác hoàn toàn, nhưng sự chậm chạp của tên nô lệ cho thấy nó đang phát tác.
Tên nô lệ lảo đảo tiến về phía trước như bị lôi bằng một sợi dây - mỗi lần lê tới một bước. Mỗi bước là một bước duy nhất trong vũ trụ của y. Y vẫn nắm chặt dao, nhưng mũi dao run rẩy.
"Ngày nào đó... sẽ có người... trong số bọn tao... lấy mạng mày, " y hổn hển.
Một nụ cười trề môi buồn bã làm miệng y méo xệch. Y ngồi xuống, vẹo về một bên, rồi cứng đờ lại và ngã vật ra xa Feyd-Rautha, mặt úp xuống đất.
Feyd-Rautha tiến tới giữa đấu trường lặng ngắt, kê một ngón chân dưới mình tên đấu sĩ, lật ngửa y lên để cho các khán đài thấy rõ cái khuôn mặt khi độc dược bắt đầu phát tác làm các cơ xoắn vặn. Nhưng khi tên đấu sĩ đã lật ngửa ra rồi, mọi người lại thấy lưỡi dao của chính y thòi ra từ ngực y.
Dẫu thất vọng, Feyd-Rautha vẫn phần nào đó thán phục tên nô lệ, thán phục y đã nỗ lực vượt qua cơn tê liệt để làm điều đó với chính y. Và cùng với sự thán phục, Feyd-Rautha cũng hiểu ra, đây quả thật là thứ mà cậu phải sợ.
Cái làm cho một người thường trở thành siêu nhân thì luôn đáng sợ.
Trong khi tập trung vào ý nghĩ này, Feyd-Rautha trở nên ý thức về tiếng ồn bùng ra từ các khán đài khắp xung quanh cậu. Người ta đang reo hò hoan hô tột cùng cuồng nhiệt.
Feyd-Rautha quay lại, nhìn lên họ.
Tất cả mọi người hoan hô ngoại trừ Nam tước, ngài ngồi chống tay lên cằm mà đắm mình suy nghĩ - và vợ chồng Bá tước, cả hai đang chằm chằm nhìn xuống cậu ta, khuôn mặt giấu sau những nụ cười.
Bá tước Fenring quay sang phu nhân, nói: "À, ừm, chàng trai thật tài ba, em nhỉ?"
"Những à, ờ, phản ứng khớp thần kinh của cậu ta quá nhanh, " cô nói.
Nam tước nhìn cô, nhìn Bá tước, rồi quay sang chú mục vào đấu trường, thầm nghĩ: Nếu kẻ nào đó có thể tiếp cận được một thứ gì đó của ta gần đến thế! Nỗi phẫn nộ bắt đầu thay cho nỗi sợ trong Nam tước. Đêm nay ta sẽ cho thằng chủ nô kia chết từ từ trên ngọn lửa liu riu... và nếu lão Bá tước này cùng phu nhân của hắn có nhúng tay vào...
Cuộc trò chuyện trên lô của Nam tước là một chuyển động xa xăm đối với Feyd-Rautha, những giọng nói chìm đi trong tiếng gào đồng thanh kèm theo nhịp giậm chân từ khắp tứ phía dội xuống:
"Lấy đầu! Lấy đầu! Lấy đầu! Lấy đầu!"
Nam tước cau mày khi thấy cái kiểu Feyd-Rautha quay lại phía ngài. Lừ đừ uể oải, khó nhọc lắm mới dằn được cơn phẫn nộ, Nam tước vẫy tay về phía chàng trai đang đứng trên đấu trường cạnh cái xác nằm ngửa chềnh ềnh của tên nô lệ. Tặng cái đầu cho thằng nhóc. Nó xứng đáng với phần thưởng đó vì đã vạch trần âm mưu của tên chủ nô.
Feyd-Rautha nhìn thấy dấu hiệu tán đồng, liền nghĩ: Họ nghĩ họ đang tôn vinh ta. Cứ để họ thấy ta nghĩ gì!
Cậu thấy các trợ thủ tiến tới, tay cầm một con dao như kiểu chiếc cưa để làm nhiệm vụ của mình, liền vẫy tay ra hiệu họ lùi lại, vẫy tay lần nữa khi thấy họ do dự. Họ nghĩ chỉ một cái đầu là đủ tôn vinh ta rồi đấy! cậu nghĩ. Cậu cúi xuống, xếp hai tay tên đấu sĩ bắt tréo quanh cán dao thòi ra, rồi rút dao đặt vào trong hai bàn tay bất động.
Việc đó cậu làm chỉ trong nháy mắt, rồi cậu thẳng người dậy, gật đầu ra hiệu cho các trợ thủ. "Chôn tên nô lệ này đi, cứ để nguyên con dao trong tay gã, " cậu nói. "Gã xứng đáng giành được nó."
Trên lô danh dự bằng vàng, Bá tước Fenring nghiêng người lại sát bên Nam tước mà nói: "Một nghĩa cử đẹp - ấy mới đích thị là anh hùng cái thế. Cháu của ông không chỉ có lòng can đảm mà còn có cả tác phong mã thượng."
"Nó xúc phạm công chúng khi từ chối nhận cái đầu, " Nam tước lẩm bẩm.
"Hoàn toàn không, " Phu nhân Fenring nói. Cô ngoái đầu, nhìn lên những khán đài quanh họ.
Và Nam tước lưu ý đường nét cái cổ của cô ta - những chuyển động tinh tế thực sự đáng yêu của các cơ - như của một cậu bé.
"Họ thích những gì cháu ông đã làm, " cô nói.
Khi ý nghĩa trong cử chỉ của Feyd-Rautha thấm vào tận những hàng ghế xa nhất, khi đám đông thấy các trợ thủ cứ để nguyên xác tên đấu sĩ như vậy mang đi, Nam tước quan sát họ và nhận ra cô đã diễn giải đúng phản ứng của họ. Người ta đang trở nên cuồng loạn, vừa thụi nhau bôm bốp vừa giậm chân, la hét.
Nam tước nói với vẻ mệt mỏi: "Tôi sẽ ra lệnh mở đại yến. Ngài không thể cho người ta cứ thế về nhà trong khi họ bừng bừng năng lượng nhường kia mà không biết trút vào đâu. Họ phải thấy rằng tôi cũng phấn khích như họ vậy." Ngài đưa tay ra hiệu cho vệ sĩ, và một gia nhân đứng phía trên họ liền chúc đầu lá cờ đuôi nheo màu cam của gia tộc Harkonnen xuống rồi nhấc lên một lần, hai lần, ba lần - dấu hiệu sẽ có đại yến.
Feyd-Rautha băng ngang đấu trường, đến đứng bên dưới lô bằng vàng, vũ khí tra vào vỏ, hai tay thả hai bên. Vượt trên cơn cuồng thú không hề giảm bớt của đám đông, cậu hô to: "Đại yến sao, thưa Bá phụ?"
Tiếng ồn bắt đầu dịu xuống khi đám đông nhìn thấy họ đang trao đổi, liền chờ đợi.
"Vinh danh cháu, Feyd ạ!" Nam tước hô to xuống. Và một lần nữa, ngài ra lệnh cho hạ cờ đuôi nheo xuống rồi lại kéo lên để làm hiệu.
Phía bên kia đấu trường, hàng rào an toàn đã bị hạ xuống và đám thanh niên đang nhảy xuống sàn đấu, rầm rập chạy về phía Feyd-Rautha.
"Ông hạ lệnh cho hạ các tấm chắn an toàn sao, Nam tước?" Bá tước hỏi.
"Sẽ không ai làm hại thằng bé đâu, " Nam tước nói. "Nó là một người hùng."
Những người đầu tiên trong đám đông đang ùn ùn chạy tới đã chạm tay được vào Feyd-Rautha, công kênh cậu lên vai, bắt đầu diễu quanh đấu trường.
"Đêm nay thì nó có thể đi qua những khu nghèo hèn nhất của Harko mà không mang vũ khí, tấm chắn cũng không, " Nam tước nói. "Người ta sẽ khoản đãi nó tất tật mọi thứ đồ ăn thức uống mà họ có miễn sao được nó ngồi cùng."
Nam tước đẩy người ra khỏi ghế, dồn sức nặng cơ thể vào bộ dây treo. "Xin chư vị thứ lỗi. Có những việc mà đích thân tôi phải để mắt tới ngay bây giờ. Vệ sĩ sẽ tiễn chư vị về lâu đài."
Bá tước đứng dậy cúi chào. "Nhất định rồi, Nam tước. Chúng tôi rất mong được dự buổi đại yến. Tôi chưa, à, ờ, chưa bao giờ dự một đại yến của nhà Harkonnen."
"Phải, " Nam tước nói. "Đại yến." Ngài quay đi, được các vệ sĩ vây quanh, bước ra khỏi lô bằng cửa riêng.
Một viên chỉ huy vệ sĩ cúi chào Bá tước Fenring. "Xin Chúa công ban lệnh."
"Bọn ta sẽ đợi cho đến khi đám đông tồi tệ nhất đi qua đã, " Bá tước nói.
"Vâng, thưa Chúa công." Tay vệ sĩ cúi chào rồi lùi lại ba bước.
Bá tước Fenring đối diện với vợ, lại dùng thứ ngôn ngữ mã hoá nghe như ậm ậm ừ ừ của riêng họ: "Dĩ nhiên là em thấy rồi chứ?"
Cũng bằng thứ ngôn ngữ ậm ậm ừ ừ đó, cô nói: "Gã trai biết tên đấu sĩ không bị phục thuốc. Đúng là có một khoảnh khắc hắn ta sợ, nhưng ngạc nhiên thì không."
"Mọi chuyện được hoạch định cả rồi, " ông ta nói. "Rặt một tấn tuồng."
"Không nghi ngờ gì nữa."
"Sặc mùi Hawat."
"Đúng vậy, " cô nói.
"Ban nãy ta có yêu cầu Nam tước loại bỏ Hawat."
"Thế là sai lầm, anh yêu ạ."
"Giờ thì ta hiểu."
"Chẳng bao lâu nữa nhà Harkonnen có thể sẽ có một Nam tước mới."
"Nếu đó là kế hoạch của Hawat."
"Việc đó cần phải kiểm tra, đúng thế."
"Thằng nhóc sẽ dễ kiểm soát hơn."
"Cho chúng ta... sau đêm nay, " cô nói.
"Em không thấy trước là sẽ khó mà quyến rũ được nó sao, con chim mẹ bé bỏng của ta?"
"Không, anh yêu ạ. Anh đã thấy nó nhìn em ra sao rồi còn gì."
"Phải, và giờ thì ta có thể hiểu tại sao chúng ta phải có được dòng máu đó."
"Quả vậy, và rõ ràng chúng ta phải nắm được thằng nhóc đó. Em sẽ cấy vào bản ngã sâu kín của nó những lời prana-bindu cần thiết để khuất phục nó."
"Chúng ta sẽ đi càng sớm càng tốt - ngay khi nào em biết chắc, " y nói.
Cô nhún vai. "Bằng mọi cách. Em không muốn sinh con ở cái nơi kinh khủng này đâu."
"Những gì chúng ta làm nhân danh nhân loại, " ông nói.
"Phần của anh thì dễ thôi, " cô nói.
"Có một vài định kiến cổ xưa mà ta phải vượt qua, " ông nói. "Chúng khá cơ bản đấy, em biết mà."
"Anh tội nghiệp của em, " cô nói rồi vỗ má ông. "Anh biết đây là cách duy nhất để ta cầm chắc cứu được dòng máu đó."
Ông nói bằng giọng khô khan: "Ta hiểu rõ chúng ta làm gì."
"Chúng ta sẽ không thất bại, " cô nói.
"Tội lỗi khởi đầu như là cảm giác thất bại, " ông nhắc nhở.
"Sẽ không có tội lỗi gì hết, " cô nói. "Chỉ cần ràng buộc tâm linh gã Feyd-Rautha đó bằng thôi miên, có được đứa con của hắn trong dạ con em là chúng ta sẽ đi ngay."
"Cái lão bá phụ ấy, " ông nói. "Em đã bao giờ thấy sự méo mó dị dạng đến thế chưa?"
"Ông ta khá hung tợn, " cô nói, "nhưng thằng cháu lớn lên có thể còn tệ hơn thế."
"Nhờ chính cái lão bá phụ ấy. Nghĩ mà xem, lẽ ra thằng bé có thể ra người thế nào nếu như nó được dạy dỗ theo cách khác - với bộ luật của nhà Atreides dẫn dắt nó chẳng hạn."
"Buồn thật, " cô nói.
"Giá như chúng ta có thể cứu cả cậu trai nhà Atreides lẫn cậu này. Từ những gì ta nghe được về cậu nhóc Paul ấy - một chàng trai thật đáng phục, sự thống hợp hài hòa giữa nòi giống và dạy dỗ." Ông lắc đầu. "Nhưng chúng ta không nên phí phạm nỗi buồn cho những kẻ quý tộc bất hạnh."
"Đó là một châm ngôn Bene Gesserit, " cô nói.
"Bọn em có châm ngôn cho mọi thứ!" ông xác nhận.
"Anh sẽ thích châm ngôn này, " cô nói. "Nó thế này: 'Đừng coi người nào đó là đã chết chừng nào chưa thấy xác anh ta. Mà ngay cả khi đã thấy, ngươi cũng có thể lầm.' ".
Muad'Dib nói với chúng tôi trong "Khoảng thời gian suy ngẫm" rằng những va chạm đầu tiên của Người với hoàn cảnh ngặt nghèo ở Arrakeen là những khởi đầu thực sự trong việc học tập của Người. Người học cách cắm cột vào cát để dự báo thời tiết, học ngôn ngữ của những mũi kim gió chích vào da, học cách làm mũi mình có thể kêu xì xì với cơn ngứa do cát và học cách thu thập hơi ẩm quý báu xung quanh Người để giữ gìn và tái chế nó. Khi mắt Người đã nhuốm màu xanh Ibad, ấy là lúc Người đã học được phương pháp Chakobsa.
- Lời nói đầu của Stilgar cho "Muad'Dib, Con người" của Công chúa Irulan.
Quân của Stilgar cùng hai kẻ đi lạc từ sa mạc quay về sietch, tiến ra khỏi vùng lòng chảo trong ánh sáng đang lịm dần của vầng trăng thứ nhất. Những dáng người mặc áo choàng dài bước đi vội vã, cảm thấy trong mũi họ mùi của mái ấm gia đình. Đường viền màu xám của hoàng hôn sau lưng họ sáng rõ hơn hết ở hẻm núi vốn được dùng trong bộ lịch dựa theo đường chân trời của họ để đánh dấu thời điểm trung thu, tháng Caprock.
Những chiếc lá khô được bọn trẻ trong sietch gom dưới chân vách núi giờ lại bị gió xới tung vương vãi khắp nơi, song tiếng di chuyển của đoàn quân (ngoại trừ thi thoảng Paul và mẹ cậu bị vấp) không thể phân biệt được với những tiếng động tự nhiên của ban đêm.
Paul lau đám bụi bết lại vì mồ hôi trên trán, cảm thấy có ai kéo tay mình, rồi nghe tiếng Chani gắt lên: "Làm như em đã bảo ấy: kéo diềm mũ xuống trùm kín trán! Chỉ để hở mắt ra thôi. Anh đang phung phí hơi ẩm đấy."
Một giọng thì thầm sau lưng họ ra lệnh phải im lặng: "Sa mạc đang nghe các bạn đó!"
Một con chim kêu ríu rít từ vách đá cao trên đầu họ.
Đoàn quân đứng lại, và Paul cảm nhận được sự căng thẳng đột ngột.
Có tiếng thùm thụp mơ hồ phát ra từ những vách đá, một tiếng động không to hơn tiếng chuột nhảy trong cát.
Một lần nữa, con chim kêu ríu rít.
Một sự xao động lướt qua những hàng quân. Và một lần nữa, tiếng thùm thụp nghe như chuột nhảy lại len lỏi xuyên qua cát.
Một lần nữa, con chim kêu ríu rít.
Đoàn quân tiếp tục leo vào một kẽ nứt giữa các vách đá, song lúc này những người Fremen như nín thở, điều đó khiến Paul thận trọng, và cậu nhận thấy có những cái nhìn vụng trộm ném về phía Chani, nhận thấy cô dường như rút lui, như thể kìm mình lại.
Giờ thì dưới chân có một tảng đá, những chiếc áo choàng xám sột soạt khe khẽ xung quanh họ, và Paul cảm thấy kỷ luật được nới lỏng, nhưng cái vẻ tĩnh lặng bên trong ở Chani và những người khác thì vẫn còn đó. Cậu bước theo đoàn người như theo những cái bóng - những bước đi lên, rẽ, thêm nhiều bước nữa, vào một đường hầm, qua hai cánh cửa được niêm kín để giữ ẩm rồi vào một hành lang hẹp có những quả đèn cầu chiếu sáng, hai bên là tường đá màu vàng, trần cũng bằng đá màu vàng.
Khắp xung quanh, Paul thấy những người Fremen trật mũ trùm đầu ra, tháo ống thở khỏi mũi rồi hít thở sâu. Ai đó thở dài. Paul tìm Chani, nhận ra cô không còn bên cậu nữa. Cậu bị vây kín giữa những thân hình chen chúc mặc áo choàng. Ai đó huých khuỷu tay cậu rồi nói: "Xin lỗi Usul. Đông quá đi mất! Bao giờ cũng vậy."
Phía bên trái, khuôn mặt gầy rậm râu của một người tên là Farok quay về phía Paul. Hai hốc mắt bị đổi màu và màu xanh tối thẫm của cặp mắt dường như còn tối hơn dưới ánh đèn vàng. "Trật mũ trùm đầu ra đi, Usul, " Farok nói. "Anh về tới nhà rồi." Và anh ta giúp Paul tháo móc cài mũ trùm, khuỳnh cùi chỏ ra hai bên để lấy chỗ.
Paul tháo ống thở ra, gạt màng ngăn che mũi sang một bên. Cái mùi của nơi này xộc vào mũi cậu: những thân thể lâu không tắm rửa, mùi ê te tinh cất của chất thải được tái chế, đâu đâu cũng nồng nặc mùi hơi người chua loét, nổi lên rõ nhất là sự nhiễu loạn của mùi hương dược và mùi những hợp chất giống như hương dược.
"Sao chúng ta lại đợi hở Farok?" Paul hỏi.
"Chắc là đợi Mẹ Chí tôn. Anh đã nghe thông điệp rồi đó - tội nghiệp Chani."
Tội nghiệp Chani? Paul tự hỏi. Cậu nhìn quanh, tự hỏi cô đang ở đâu, mẹ cậu đã biến đi đàng nào trong cái đám đông này.
Farok hít một hơi dài. "Mùi của nhà mình, " anh ta nói.
Paul thấy người này đang thích thú tận hưởng mùi hôi thối trong bầu không khí, không có chút mỉa mai nào trong giọng anh ta. Rồi thì cậu nghe tiếng mẹ húng hắng ho, và giọng bà vọng đến tai cậu qua đám đông chen chúc: "Những mùi trong sietch của các vị thật phong phú làm sao, Stilgar ạ. Tôi thấy các vị làm rất nhiều thứ với hương dược... các vị làm giấy... nhựa... rồi thì... đó không phải là chất nổ hóa học đấy chứ?"
"Bà nghe mùi mà biết được à?" giọng một người đàn ông khác nói.
Và Paul nhận ra rằng mẹ đang nói vì lợi ích của cậu, rằng bà muốn cậu nhanh chóng chấp nhận cái mùi nồng nặc đang tấn công không thương tiếc vào mũi cậu.
Có tiếng ồn ào khi người ta làm gì đó ở phía đầu đám đông, và một hơi thở kéo dài dường như lan qua tất cả những người Fremen, rồi Paul nghe những giọng xì xào cố nén phía cuối dòng người: "Đúng thật rồi - Liet đã chết."
Liet, Paul nghĩ. Rồi: Chani, con gái của Liet. Những mẩu rời rạc đó ráp lại với nhau trong tâm trí cậu. Liet là tên mà người Fremen gọi nhà sinh thái học.
Paul nhìn Farok, hỏi: "Có phải Liet còn có tên là Kynes không?"
"Chỉ có một Liet thôi, " Farok nói.
Paul ngoảnh đi, nhìn đăm đăm vào tấm lưng mặc áo choàng của người Fremen đứng trước. Vậy là Liet-Kynes đã chết, cậu nghĩ.
"Đó là do bọn Harkonnen phản bội, " ai đó rít lên. "Chúng ngụy trang như một vụ tai nạn... lạc trong sa mạc... tàu bị rơi..."
Paul cảm thấy bừng bừng giận dữ. Người đã giúp họ như một người bạn, đã cứu họ thoát khỏi bọn Harkonnen truy sát, người đã cử quân đi tìm hai kẻ lạc trong sa mạc... lại thêm một nạn nhân của bọn Harkonnen.
"Có phải Usul lại thèm khát trả thù?" Farok hỏi.
Paul chưa kịp trả lời thì một tiếng gọi trầm cất lên và đoàn người tiến lên phía trước vào một gian phòng rộng hơn, mang Paul theo cùng họ. Cậu thấy mình đang ở trong một không gian thông thoáng, trước mặt là Stilgar và một người đàn bà lạ mặt quấn quanh người bộ áo dài lụng thụng màu cam và xanh sặc sỡ. Tay chị ta để trần tới vai, và cậu thấy chị ta không mặc sa phục. Da chị ta màu ô liu nhạt. Mái tóc sẫm vuốt ngược ra sau để lộ vầng trán cao, khiến người ta chú ý vào hai gò má sắc nét và chiếc mũi khoằm chen giữa bóng tối dày đặc của cặp mắt.
Chị ta ngoảnh sang Paul, và cậu thấy những chiếc vòng vàng có xâu khuyên đo nước lủng lẳng ở tai chị ta.
"Kẻ đã hạ Jamis của ta đây ư?" chị ta hỏi.
"Im lặng nào, Harah, " Stilgar nói. "Đó là do Jamis tự làm - chính anh ta đã đòi quyết đấu tahaddi al-burhan."
"Nó chỉ là thằng nhóc thôi!" chị ta nói. Chị lắc đầu quầy quậy, khiến những vòng đo nước kêu lanh canh. "Đàn con tôi đã bị mất cha vì một đứa trẻ con khác ư? Nhất định rồi, đó chỉ là một rủi ro!"
"Usul, anh bao nhiêu tuổi?" Stilgar hỏi.
"Mười lăm tuổi chuẩn, " Paul nói.
Stilgar lướt nhìn khắp đám đông. "Có ai trong các người muốn thách đấu với tôi không?"
Im lặng.
Stilgar nhìn người đàn bà. "Chừng nào tôi chưa học được những kiểu thức huyền thuật của Usul, tôi sẽ không thách đấu với cậu ấy."
Chị ta chằm chằm nhìn lại ông. "Nhưng..."
"Cô đã thấy người đàn bà lạ mặt đi cùng Chani đến gặp Mẹ Chí tôn rồi chứ?" Stilgar hỏi. "Bà ta là một Sayyadina ngoại tộc, mẹ của cậu trai này. Hai mẹ con là bậc thầy của những phương pháp giao chiến huyền thuật."
"Lisan al-Gaib, " người đàn bà thì thầm. Mắt chị ta lộ vẻ kính sợ khi lại nhìn về phía Paul.
Lại truyền thuyết nữa, Paul nghĩ.
"Có lẽ vậy, " Stilgar nói. "Tuy nhiên điều đó chưa được kiểm tra." Ông lại hướng sự chú ý vào Paul. "Usul, theo tập quán của chúng tôi, giờ thì anh chịu trách nhiệm về vợ của Jamis đây và hai đứa con anh ấy. Yali của anh ta... nhà của anh ta, giờ đây là nhà anh. Phần cà phê phục vụ anh ta nay là của anh... và cả đây nữa, người đàn bà của anh ta."
Paul vừa quan sát người đàn bà vừa tự hỏi: Tại sao chị ta không than khóc người đàn ông của chị ta? Tại sao chị ta không tỏ vẻ căm hận mình? Đột nhiên, cậu nhận ra người Fremen đang chăm chú nhìn cậu, chờ đợi.
Ai đó thì thầm: "Cậu có việc cần làm đấy. Hãy nói xem cậu tiếp nhận cô ta ra sao."
Stilgar nói: "Anh nhận Harah làm người chung sống hay người phục vụ?"
Harah nâng hai tay lên, chầm chậm xoay người trên một gót chân. "Tôi còn trẻ, Usul ạ. Người ta nói tôi trông vẫn trẻ như hồi tôi còn ở với Geoff... trước khi Jamis hạ thủ anh ấy."
Jamis đã giết một người khác để giành được chị ta, Paul nghĩ.
Paul nói: "Nếu tôi nhận cô ấy làm người phục vụ thì liệu sau này tôi có thể đổi ý không?"
"Anh có một năm để thay đổi quyết định, " Stilgar nói. "Sau đó, cô ta sẽ là người phụ nữ tự do có quyền tùy ý lựa chọn... hoặc bất cứ lúc nào anh cũng có thể giải phóng cô ấy để cô ấy tự lựa chọn. Nhưng dù thế nào đi nữa, trong vòng một năm, cô ấy là trách nhiệm của anh... và anh sẽ phải luôn luôn chia sẻ một phần trách nhiệm với các con của Jamis."
"Tôi nhận cô ấy làm người phục vụ, " Paul nói.
Harah giậm một chân, lắc vai đầy giận dữ. "Nhưng tôi còn trẻ mà!"
Stilgar nhìn Paul, nói: "Cẩn trọng là một phẩm chất xứng đáng ở người lãnh đạo."
"Nhưng tôi còn trẻ!" Harah lặp lại.
"Im nào, " Stilgar ra lệnh. "Cái gì vốn đã giá trị thì vẫn sẽ có giá trị. Hãy chỉ cho Usul nhà anh ấy, cho anh ấy thay quần áo sạch và có chỗ nghỉ ngơi."
"Ôi !" chị ta nói.
Paul đã ghi nhận về chị ta đủ để có một đánh giá gần đúng đầu tiên. Cậu cảm thấy sự nôn nóng của đám đông, biết rằng ở đây có nhiều cái đang bị trì hoãn. Cậu băn khoăn không biết có dám hỏi xem mẹ và Chani đang ở đâu không, và từ dáng đứng bồn chồn của Stilgar cậu nhận ra nếu hỏi vậy thì hẳn là sai lầm.
Cậu đối diện Harah, bắt giọng với thanh điệu và độ rung sao cho làm nổi bật nỗi sợ hãi và kính nể của chị ta rồi nói: "Chỉ cho ta xem nhà của ta nào, Harah! Khi khác chúng ta sẽ bàn về tuổi trẻ của cô."
Chị ta lùi lại hai bước, ném một cái nhìn sợ sệt về phía Stilgar. "Anh ta có giọng huyền thuật, " chị thì thầm.
"Stilgar, " Paul nói. "Phụ thân của Chani đã đặt nghĩa vụ nặng nề lên vai tôi. Nếu có chuyện gì..."
"Chuyện đó sẽ được quyết ở hội đồng, " Stilgar nói. "Khi đó anh có thể phát biểu." Ông gật đầu ra hiệu cho đi, rồi quay lưng bước, đám đông còn lại nối theo.
Paul nắm lấy cánh tay Harah, để ý thấy da thịt chị mát rượi, cảm thấy chị đang run rẩy. "Tôi không làm hại cô đâu, Harah ạ, " cậu nói. "Chỉ cho tôi xem nhà chúng ta nào." Và cậu dùng những yếu tố thư giãn để làm giọng mình trở nên dịu dàng hơn.
"Anh sẽ không vứt bỏ tôi khi thời hạn một năm qua đi chứ?" chị hỏi. "Tôi biết chắc mình không còn trẻ như xưa nữa."
"Chừng nào tôi còn sống, cô sẽ có một chỗ ở bên tôi, " cậu nói. Cậu buông lỏng tay chị. "Đi nào, nhà chúng ta ở đâu?"
Chị ta quay đi, dẫn đường dọc theo hành lang, rẽ phải vào một đường hầm rộng rãi cắt ngang được những quả cầu màu vàng treo cách quãng đều đặn trên đầu chiếu sáng. Sàn đá phẳng lì, tịnh không một hạt bụi.
Paul tiến lên ngang chị ta, quan sát kỹ nét mặt như chim ưng của chị trong khi họ bước bên nhau. "Cô không ghét tôi à, Harah?"
"Sao tôi lại phải ghét anh?"
Chị ta gật đầu với một đám trẻ đang đứng nhìn họ chằm chằm trên cái gờ nhô cao ở một hành lang bên cạnh. Paul thoáng thấy bóng những người lớn đằng sau bọn trẻ, được che khuất một phần nhờ những tấm rèm đùng đục.
"Tôi... đã thắng Jamis."
"Stilgar nói tang lễ đã được tiến hành và anh là bạn của Jamis." Chị liếc nhìn cậu. "Stilgar nói anh đã trao hơi ẩm cho người chết. Có đúng vậy không?"
"Phải."
"Tôi thì sẽ không làm thế... không thể làm thế được."
"Cô có thương tiếc anh ấy không?"
"Đến lúc than khóc thì tôi sẽ than khóc cho anh ấy."
Họ đi ngang qua một ô cửa vòm cung. Paul nhìn qua ô cửa thì thấy nhiều người đàn ông, đàn bà đang làm việc bên những cỗ máy lắp trên bệ trong một căn phòng rộng, sáng sủa. Dường như ở họ có một nhịp độ khẩn trương đặc biệt.
"Họ đang làm gì trong đó vậy?" Paul hỏi.
Chị ta ngoái lại nhìn khi họ đã đi qua khỏi ô cửa, nói: "Họ đang cố hoàn tất chỉ tiêu của phân xưởng sản xuất đồ nhựa trước khi chúng ta trốn khỏi đây. Chúng ta cần nhiều thiết bị thu sương để trồng trọt."
"Trốn?"
"Chừng nào bọn đồ tể còn chưa thôi săn bắt chúng ta hoặc chưa bị đuổi sạch khỏi xứ ta."
Paul bỗng dưng thấy mình như bị hẫng, cảm thấy một khoảnh khắc thời gian bị tóm giữ, nhớ lại một mẩu vụn, một hình chiếu thị giác tiên tri hiển hiện trước mắt - nhưng rồi nó bị thay thế, giống như thước phim đang chạy. Những mẩu ký ức tiên tri của cậu không hẳn đúng như cậu nhớ về chúng.
"Bọn Sardaukar đang săn lùng chúng ta, " cậu nói.
"Chúng sẽ chẳng tìm thấy gì nhiều ngoài một, hai sietch rỗng không, " chị nói. "Và chúng sẽ tìm thấy phần cái chết của chúng ở trong cát."
"Chúng có tìm ra nơi này không?" cậu hỏi.
"Chắc là có."
"Thế mà chúng ta lại phí thì giờ..." Cậu hất đầu ra hiệu về phía vòm cửa giờ đã ở phía xa sau lưng họ, "để làm... những thiết bị thu sương?"
"Vẫn phải trồng trọt chứ."
"Thiết bị thu sương là gì vậy?" cậu hỏi.
Cái nhìn đáp lại của chị đầy ắp ngạc nhiên. "Người ta chẳng dạy gì cho anh ở... ở nơi nào đó mà trước kia anh sống hay sao?"
"Về thiết bị thu sương thì không."
"Chao!" chị ta nói, và một chữ đó hàm chứa cả một cuộc đối thoại.
"Vậy, nó là gì vậy?"
"Mỗi bụi cây, mỗi cọng cỏ dại anh nhìn thấy trên biển cát ngoài kia, anh cho là nó sống như thế nào khi chúng ta rời bỏ nó?" chị ta nói. "Mỗi bụi cây, búi cỏ đều được trồng một cách hết sức nâng niu trong một cái hốc con riêng. Những hốc này chứa đầy các thể lạp sắc hình ô van phẳng phiu. Ánh sáng làm chúng chuyển sang màu trắng. Nếu đứng trên cao nhìn xuống, anh có thể thấy chúng lấp lánh trong ánh bình minh. Màu trắng thì phản xạ. Nhưng khi Thái Dương Lão Phụ ra đi, lạp sắc lại chuyển thành trong suốt trong bóng tối. Nó lạnh đi cực nhanh. Bề mặt nó làm ngưng tụ hơi ẩm trong không khí. Hơi ẩm ấy chuyển thành nước, rỉ xuống để giữ cho cây sống."
"Thiết bị thu sương, " cậu lẩm bẩm, thích thú cái vẻ đẹp giản dị của một ý tưởng như vậy.
"Tôi sẽ khóc thương Jamis vào lúc thích hợp, " chị nói, như thể tâm trí chị ta vẫn chưa quên câu hỏi kia của cậu. "Lúc còn sống anh ấy là người tốt, Jamis ấy, chỉ có điều dễ nóng giận quá. Anh ấy là trụ cột vững chắc của gia đình, và với con cái thì anh ấy thật tuyệt. Anh ấy không hề phân biệt giữa con riêng của tôi, tức đứa đầu của tôi với Geoff, và con ruột của anh ấy. Anh ấy coi chúng như nhau." Chị hướng cái nhìn dò hỏi về phía Paul. "Anh sẽ như vậy chứ, Usul?"
"Giữa chúng ta không tồn tại vấn đề đó."
"Nhưng nếu..."
"Harah!"
Chị chùn lại trước vẻ gay gắt trong giọng cậu.
Họ đi ngang qua một căn phòng khác được thắp sáng trưng, có thể nhìn thấy rõ từ ô cửa vòm bên trái. "Ở đây người ta làm gì?" cậu hỏi.
"Họ chữa máy dệt, " chị ta nói, "nhưng người ta sẽ phải tháo nó ra trước đêm nay." Chị ra hiệu về phía một đường hầm nhánh ở bên trái. "Suốt cả đằng đó và xa hơn nữa là nơi chế biến thực phẩm và bảo trì sa phục." Chị nhìn Paul. "Bộ đồ của anh trông còn mới. Nhưng nếu cần chỉnh sửa gì thì tôi khá rành chuyện quần áo. Tôi làm việc trong nhà máy theo thời vụ mà."
Giờ thì họ bắt đầu đến gần những nhóm người, những cụm ô cửa dọc hai bên đường hầm cũng trở nên dày đặc hơn. Một tốp đàn ông đàn bà đi ngang qua hai người, mang những cái túi kêu òng ọc rất to, mùi hương dược xộc lên nồng nặc.
"Chúng sẽ không cướp được nước của chúng ta đâu, " Harah nói. "Hương dược cũng không. Anh có thể tin chắc thế."
Paul liếc nhìn những ô cửa hai bên vách hầm, nhìn những tấm thảm nặng trải trên các gờ nhô cao, thoáng thấy những căn phòng tường có treo các tấm vải màu sặc sỡ và đệm xếp thành chồng. Những người đứng nơi ô cửa im bặt khi họ đi qua, nhìn chòng chọc theo Paul chẳng cần che đậy.
"Người ta thấy anh thắng được Jamis thì thật lạ, " Harah nói. "Có lẽ khi chúng ta đã an cư ở sietch mới thì anh sẽ phải làm gì đó để tự chứng tỏ mình."
"Tôi không thích giết chóc, " cậu nói.
"Stilgar cũng nói vậy, " chị nói, nhưng giọng để lộ sự hoài nghi.
Những tiếng đọc ồn ã càng lúc càng vang to trên đầu họ. Họ bước đến gần một ô cửa khác ở bên vách, rộng hơn bất cứ ô cửa nào Paul đã thấy. Cậu chậm bước, nhìn đăm đăm vào một căn phòng chật ních bọn trẻ con ngồi bắt tréo chân trên mặt sàn trải thảm màu hạt dẻ.
Cạnh tấm bảng tựa vào bức tường phía xa có một phụ nữ mặc áo choàng màu vàng đang đứng, tay cầm một cây bút trỏ. Tấm bảng đầy những hình vẽ - hình tròn, hình nêm, đường cong, đường ngoằn ngoèo như rắn, hình vuông, hình vòng cung thanh thoát bị những đường song song cắt làm đôi. Người phụ nữ trỏ vào các hình vẽ, lần lượt từng cái, dời bút nhanh hết mức, trong khi bọn trẻ đồng thanh đọc hòa nhịp theo bàn tay chuyển động của cô.
Paul lắng tai, nghe những giọng ê a đó mỗi lúc một nhỏ dần phía sau trong khi cậu cùng Harah tiến sâu hơn vào trong lòng sietch.
"Cây, " bọn trẻ ê a. "Cây, cỏ, cồn cát, gió, núi, đồi, lửa, sét, đá, bụi, cát, nóng, nơi trú ngụ, nóng, đầy, mùa đông, lạnh, trống, xói mòn, mùa hạ, hang, ngày, căng thẳng, trăng, đêm, chỏm đá, triều cát, dốc, trồng trọt, dây buộc..."
"Dân Fremen các cô cho bọn trẻ con học vào lúc này sao?" Paul hỏi.
Khuôn mặt chị trở nên ủ rũ, giọng nhuốm buồn: "Những gì Liet đã dạy chúng tôi, chúng tôi không thể ngừng dù chỉ trong khoảnh khắc. Chúng tôi không được phép quên Liet, người đã khuất. Đó là Đạo Chakobsa."
Chị băng sang bên trái đường hầm, bước lên một cái gờ, vạch những tấm màn màu cam mỏng tang rồi đứng sang bên. "Yali của anh đã sẵn sàng để đợi anh, Usul."
Paul ngần ngừ một chút rồi mới theo chị bước lên gờ đá. Đột nhiên cậu cảm thấy miễn cưỡng khi phải ở một mình với người đàn bà này. Cậu chợt hiểu, mình đang bị vây quanh giữa một lối sống mà cậu chỉ có thể hiểu nếu mặc nhiên công nhận cả một hệ thống ý niệm và giá trị. Cậu cảm thấy cái thế giới Fremen này đang giương câu nhử cậu, cố giăng bẫy tóm cậu, buộc cậu phải theo cung cách của nó. Và cậu biết cái gì nằm trong cái bẫy đó - cuộc thánh chiến rồ dại, cuộc chiến tranh tôn giáo mà cậu cảm thấy mình phải tránh bằng mọi giá.
"Đây là yali của anh, " Harah nói. "Sao anh chần chừ vậy?"
Paul gật đầu, trèo lên gờ đá cạnh chị. Cậu nâng những tấm rèm ở ngay trước mặt chị lên, cảm thấy những sợi kim loại trong thớ vải, theo chị vào một hành lang ngắn rồi vào một phòng lớn hơn, hình vuông, mỗi cạnh chừng sáu mét, sàn trải thảm dày màu xanh dương, những tấm vải màu xanh dương và xanh lục che kín bốn bức tường đá, những chiếc đèn cầu chỉnh sang màu vàng treo trên đầu bập bồng lắc lư dưới lớp vải màu vàng xếp nếp trên trần nhà.
Tất cả mang lại không khí một căn lều thời cổ.
Harah đứng trước mặt cậu, tay trái chống lên sườn, mắt săm soi nhìn cậu. "Bọn trẻ đang có bạn, " chị nói. "Chúng sẽ trình diện sau."
Paul che giấu nỗi bối rối bằng cách đưa mắt nhìn nhanh căn phòng. Cậu nhận thấy những tấm rèm mỏng bên phải che khuất một phần căn phòng lớn hơn với những chiếc nệm con chất đống dọc các bức tường. Cậu cảm thấy một làn gió nhẹ thoảng ra từ một ống dẫn khí, thấy đầu ra của nó được giấu khéo léo trong một dãy rèm nhiều lớp ngay phía trước cậu.
"Anh có muốn tôi giúp anh cởi sa phục ra không?" Harah hỏi.
"Không... cám ơn."
"Tôi dọn đồ ăn cho anh nhé?"
"Ừ."
"Có một gian tái chế cạnh căn phòng kia." Chị ra hiệu. "Để anh nghỉ ngơi thoải mái khi đã cởi bỏ sa phục."
"Cô đã nói chúng ta phải rời sietch này, " Paul nói. "Chúng ta không phải gói ghém đồ đạc hay gì gì sao?"
"Chuyện đó khi nào đến lúc hẵng làm, " chị nói. "Bọn đồ tể vẫn chưa xâm nhập khu vực của chúng ta mà."
Chị vẫn ngần ngừ, nhìn cậu đăm đăm.
"Có chuyện gì vậy?" cậu hỏi.
"Anh không có cặp mắt của Ibad, " chị nói. "Lạ, nhưng không phải hoàn toàn không hấp dẫn."
"Dọn đồ ăn đi, " cậu nói. "Tôi đói."
Chị mỉm cười với cậu - một nụ cười hiểu biết, rất đàn bà khiến cậu thấy trong lòng không yên. "Tôi là gia nhân của cậu, " chị nói, rồi xoay người đi khỏi bằng dáng đi uyển chuyển, cúi mình băng qua một bức rèm nặng dùng làm tường, bức rèm nhấc lên lưng chừng để lộ một hành lang nữa rồi lập tức rơi về chỗ cũ.
Cảm thấy tức giận với chính mình, Paul gạt tấm rèm mỏng phía bên phải rồi bước vào căn phòng rộng hơn. Cậu đứng đó một lúc, tần ngần. Và cậu tự hỏi Chani đang ở đâu... Chani, người vừa mất cha.
Về chuyện đó chúng ta giống nhau, cậu nghĩ.
Một tiếng kêu rền rĩ vang lên từ những hành lang ngoài, âm lượng của nó bị những tấm rèm ngăn làm nghẹt bớt. Nó lặp lại, có phần xa hơn. Rồi lại lặp lại. Paul nhận ra ai đó đang nhắc nhở về thời gian. Cậu tập trung vào sự thật rằng cậu không hề thấy chiếc đồng hồ nào.
Mùi bụi cây creosote bị đốt thoảng bay đến mũi cậu, vượt trên cái mùi hôi thối ngự trị khắp sietch. Paul nhận ra mình đã đè nén được cuộc tấn công của các mùi lên giác quan mình.
Và cậu lại băn khoăn về mẹ, cái chuỗi hình di chuyển của tương lai kia sẽ hợp nhất mẹ vào nó như thế nào... cả đứa con gái mà bà sinh ra nữa. Nhận thức thời gian khả biến nhảy múa xung quanh cậu. Cậu lắc mạnh đầu, tập trung chú ý vào những bằng chứng nói lên chiều rộng và chiều sâu thăm thẳm của nền văn hóa Fremen này, nền văn hóa đã nuốt chửng họ.
Với những sự kỳ quặc tinh tế của nó.
Cậu đã thấy một điều về những cái hang và về căn phòng này, một thứ gợi lên cho cậu những khác biệt lớn lao hơn gấp bội so với bất cứ cái gì cậu từng gặp trước đây.
Không một dấu hiệu nào cho thấy có máy dò độc dược ở đây, không điều gì chỉ ra rằng người ta dùng nó ở bất cứ đâu trong toàn bộ cái hang này. Thế nhưng cậu vẫn ngửi thấy mùi độc dược trong mùi khẳm của sietch - những độc dược mạnh, những độc dược thường gặp.
Cậu nghe thấy tiếng rèm sột soạt, nghĩ rằng Harah bê đồ ăn quay lại bèn xoay người để quan sát chị ta. Thế nhưng, từ dưới một dãy rèm nhiều lớp bị vén lên, cậu thấy hai cậu bé - trạc chín và mười tuổi - nhìn cậu chăm chăm bằng cặp mắt hau háu. Mỗi đứa mang một con dao pha lê kiểu dao găm ngắn, một tay đặt lên cán dao.
Và Paul nhớ lại những câu chuyện về người Fremen - rằng trẻ con Fremen cũng biết giao chiến ác liệt như người lớn.
Tay chuyển động, môi chuyển động -.
Ý nghĩ tuôn ồng ộc từ lời lẽ ngài,
Và mắt ngài ăn tươi nuốt sống!
Ngài là một hòn đảo Tự ngã.
- Bản mô tả trích từ "Sổ tay của Muad'Dib" của Công chúa Irulan.
Những ống đèn phốt pho ở các mép xa trên trần hang hắt ánh sáng lờ mờ lên lòng hang chật ních người, gợi ý về kích thước to lớn của không gian bốn bề toàn đá này... Jessica nhận thấy còn rộng hơn cả Đại Sảnh Đường của trường Bene Gesserit nàng từng học. Nàng ước tính có đến hơn năm ngàn người đang tụ tập ở đây, dưới gờ đá nơi nàng đang đứng cùng Stilgar.
Thế mà người ta vẫn đang vào thêm.
Bầu không khí đầy ắp tiếng người râm ran.
"Con trai bà sẽ được triệu tập từ nơi cậu ấy nghỉ ngơi, thưa Sayyadina, " Stilgar nói. "Bà có muốn cậu ấy dự phần vào quyết định của bà không?"
"Nó có thể thay đổi quyết định của tôi không?"
"Nhất định rồi, không khí thoát ra khi bà nói xuất phát từ phổi của chính bà kia mà, nhưng..."
"Quyết định vẫn nguyên giá trị, " nàng nói.
Nhưng nàng thấy lòng đầy nghi ngại, tự hỏi liệu nàng có nên dùng Paul như một cái cớ để thối lui trước một con đường nguy hiểm hay không. Lại còn phải nghĩ tới đứa con gái chưa ra đời nữa. Cái gì gây nguy hiểm cho thân xác người mẹ thì cũng gây nguy hiểm cho thân xác đứa con.
Những người đàn ông tiến ra vác theo những tấm thảm cuộn tròn, càu nhàu dưới sức nặng của đống thảm, thả phịch chúng xuống gờ đá làm bụi tung mù mịt.
Stilgar nắm tay dẫn nàng vào góc sừng dẫn âm tạo thành khu vực trong cùng của gờ đá. Ông chỉ vào một băng ghế dài bằng đá bên trong góc sừng dẫn âm. "Mẹ Chí tôn sẽ ngồi ở đây, nhưng bà có thể ngồi chừng nào Mẹ chưa tới."
"Tôi thích đứng hơn, " Jessica nói.
Nàng quan sát mấy người đàn ông trải các tấm thảm che kín mặt gờ đá, rồi nhìn ra đám đông. Giờ thì có ít nhất mười ngàn người trên sàn đá.
Thế mà họ vẫn đến nữa.
Nàng biết, ngoài sa mạc lúc này là lúc chập tối màu đỏ ối, nhưng nơi đây, ở sảnh đường trong hang này là hoàng hôn vĩnh cửu, một vùng xám xịt mênh mông dày đặc những người đến để xem nàng đánh liều tính mạng mình.
Một con đường được mở xuyên qua đám người bên phải nàng, và nàng thấy Paul đang tiến lại, hai bên là hai đứa bé trai. Hai thằng bé có vẻ vênh vang của kẻ tự thấy mình quan trọng. Chúng đặt tay lên cán dao, cau có nhìn hai bên bức tường người.
"Các con của Jamis nay là con của Usul, " Stilgar nói. "Chúng nghiêm túc thi hành nghĩa vụ hộ tống cha, " ông đánh liều mỉm cười với Jessica.
Jessica nhận ra ông đang cố làm cho tâm trạng nàng dễ chịu hơn, cảm thấy biết ơn về điều đó, nhưng nàng không thể dứt tâm trí ra khỏi mối nguy trước mặt.
Nếu không làm thế này thì ta chẳng còn cách nào khác, nàng nghĩ. Chúng ta phải hành động nhanh nếu muốn bảo đảm chắc chắn vị trí của mình giữa những người Fremen này.
Paul trèo lên gờ đá, để mấy đứa trẻ lại bên dưới. Cậu dừng lại trước mặt mẹ, liếc sang Stilgar, rồi lại nhìn Jessica. "Chuyện gì đang xảy ra vậy? Con cứ nghĩ con được triệu tập đến hội đồng."
Stilgar giơ tay yêu cầu giữ im lặng, rồi ra hiệu về bên trái, nơi một lối đi khác vừa được mở xuyên qua đám đông. Chani từ xa tiến lại theo lối đi này, khuôn mặt nhỏ nhắn của cô đầy những nếp nhăn buồn khổ. Cô đã cởi bỏ sa phục mà vận bộ áo choàng duyên dáng màu xanh dương quấn quanh người, để lộ đôi tay mảnh dẻ. Trên cánh tay cô, gần vai trái, có buộc một chiếc khăn tay màu xanh lục.
Xanh lục là màu tang chế, Paul nghĩ.
Đó là một trong các phong tục mà hai đứa con của Jamis đã gián tiếp giải thích cho cậu, bằng cách bảo cậu rằng chúng không vận màu xanh lục bởi chúng đã chấp nhận cậu là cha đồng thời là người giám hộ.
"Chú có phải là Lisan al-Gaib không?" chúng hỏi. Và Paul cảm thấy cuộc thánh chiến trong lời chúng, lờ câu hỏi đó đi bằng cách đặt câu hỏi của chính mình - nhờ vậy mới biết rằng thằng anh, Kaleff, năm nay mười tuổi, là con ruột của Geoff. Orlop, đứa bé hơn thì tám tuổi, con ruột của Jamis.
Thật là một ngày kỳ lạ khi hai đứa trẻ kia đứng ra làm vệ sĩ cho cậu theo đúng lời cậu yêu cầu, không cho những kẻ tò mò được lại gần, cho phép cậu có thì giờ để ấp ủ những suy tư, những ký ức tiên tri của cậu và để vạch ra kế hoạch nhằm ngăn ngừa cuộc thánh chiến.
Lúc này, đứng cạnh mẹ trên gờ đá trong hang mà nhìn xuống đám đông, cậu tự hỏi liệu có kế hoạch nào ngăn nổi những đoàn quân cuồng chiến đó tràn ra.
Chani đang tiến lại gần gờ đá, theo sau cô một quãng là bốn phụ nữ khênh một chiếc kiệu trên đó có một phụ nữ khác ngồi.
Jessica lờ đi việc Chani đang lại gần mà tập trung chú ý vào người đàn bà ngồi kiệu - một bà già, một món đồ cổ quắt queo khú đế trong chiếc áo thụng đen, mũ trùm lật ra sau để lộ mớ tóc rối bù màu xám và cái cổ khẳng khiu.
Những người khênh kiệu nhẹ nhàng hạ chiếc kiệu xuống gờ đá, rồi Chani giúp bà già đứng dậy.
Vậy ra đây là Mẹ Chí tôn, Jessica nghĩ.
Mụ già tựa riết vào Chani trong khi khập khiễng đi về phía Jessica, trông như một bó củi bọc trong chiếc áo dài đen. Mụ ta dừng lại trước mặt Jessica, ngẩng lên nhìn chòng chọc một hồi lâu rồi mới cất tiếng bằng giọng thều thào khàn đặc:
"Vậy cô là người đó." Cái đầu già nua gật một cái trông như sắp rụng tới nơi trên chiếc cổ gầy. "Shadout Mapes đã có lý khi thương hại cô."
Jessica nói nhanh, vẻ khinh miệt: "Tôi không cần ai thương hại."
"Cái đó còn để xem, " mụ già nói khàn khàn. Mụ quay lưng đi nhanh một cách bất ngờ, đối diện với đám đông. "Nói cho họ đi, Stilgar."
"Tôi phải nói à?" ông hỏi.
"Chúng ta là con dân của Misr, " mụ kêu lên the thé. "Từ khi tổ tiên Sunni của chúng ta trốn khỏi Nilotic al-Ourouba, chúng ta đã biết sự bay và cái chết. Người trẻ tiếp tục bay và chết, để dân tộc chúng ta không chết."
Stilgar hít một hơi dài, tiến lên hai bước.
Jessica cảm thấy sự im lặng trùm lên cái hang chật ních người - giờ thì có tới khoảng hai vạn người, đứng lặng lẽ, hầu như không nhúc nhích. Nó khiến nàng tự dưng thấy mình nhỏ bé và đầy thận trọng.
"Đêm nay chúng ta phải rời khỏi sietch này nơi chúng ta đã trú ngụ từ lâu để đi về phía Nam, vào trong sa mạc, " Stilgar nói. Giọng ông âm vang trên những khuôn mặt ngẩng cao, dội qua dội lại bằng sức mạnh có được nhờ góc sừng dẫn âm phía sau gờ đá.
Đám đông vẫn im lặng.
"Mẹ Chí tôn nói với tôi người không thể sống hết một hajra nữa, " Stilgar nói. "Trước đây chúng ta đã sống không có Mẹ Chí tôn, nhưng một dân tộc cứ mãi đi tìm quê nhà mới cho mình trong tình trạng đó thì thật không hay."
Giờ thì đám đông động đậy, gợn lên những tiếng xì xào, những sóng ngầm lao xao lo lắng.
"Để điều này không thể xảy ra, " Stilgar nói, "Jessica Huyền thuật, vị Sayyadina mới của chúng ta, đã chấp thuận gia nhập nghi lễ lần này. Bà sẽ cố gắng qua bên trong để chúng ta không bị mất sức mạnh của Mẹ Chí tôn."
Jessica Huyền thuật, Jessica nghĩ. Nàng thấy Paul nhìn mình chòng chọc, mắt cậu đầy nghi vấn, nhưng miệng cậu bị toàn bộ vẻ kỳ lạ vây quanh họ làm cho nín lặng.
Chani dẫn Mẹ Chí tôn già nua đến một chiếc ghế dài bằng đá nằm sâu trong góc sừng dẫn âm, rồi quay lại đứng bên Stilgar.
"Để chúng ta không mất tất cả nếu chẳng may Jessica Huyền thuật thất bại, " Stilgar nói, "lần này, Chani, con gái của Liet, sẽ được thánh hóa trong Sayyadina." Ông bước sang bên một bước.
Từ sâu trong góc sừng dẫn âm, giọng bà già vang đến chỗ họ, một giọng thì thầm được khuếch đại, chói gắt, the thé: "Chani vừa từ hajra của nó trở về - Chani đã nhìn thấy nước."
Tiếng thì thầm đáp lại dậy lên từ đám đông: "Cô ấy đã nhìn thấy nước."
"Ta thánh hóa con gái của Liet trong Sayyadina, " mụ già nói khàn khàn.
"Cô ấy được chấp nhận, " đám đông đáp lại.
Paul chỉ loáng thoáng nghe thấy những trao đổi theo nghi thức đó, tâm trí cậu còn bận tập trung vào những gì người ta nói về mẹ cậu.
Nếu bà thất bại?
Cậu quay lại nhìn người được gọi là Mẹ Chí tôn, nghiên cứu kỹ những đường nét khô héo của mụ già, màu xanh ngưng đọng không đáy của cặp mắt. Mụ ta trông như thể chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng bị thổi bay, thế nhưng ở mụ có gì đó gợi ra rằng mụ có thể đứng nguyên không lay chuyển ngay giữa đường tiến của một cơn bão coriolis. Mụ mang cũng một vòng hào quang sức mạnh mà cậu còn nhớ rõ, giống như của Mẹ Chí tôn Gaius Helen Mohiam, người đã thử thách cậu bằng sự cận kề cái chết theo lối gom jabbar.
"Ta, Mẹ Chí tôn Ramallo, người mà giọng nói cất lên thay muôn người, nói điều này với ngươi, " mụ già nói. "Chani thể nhập vào Sayyadina là điều hợp lẽ."
"Đó là điều hợp lẽ, " đám đông đáp lại.
Mụ già gật đầu, rồi thì thầm: "Ta cho cô ấy những bầu trời màu bạc, sa mạc vàng cùng những vách đá chói ngời của nó, những cánh đồng xanh rồi sẽ có. Ta trao tất cả cho Sayyadina Chani. Và để cho cô ấy chớ quên rằng cô ấy là tôi tớ của tất cả chúng ta, nghĩa vụ hầu hạ trong buổi Lễ Hạt giống này sẽ được giao cho cô ấy. Hãy để như vậy bởi Shai-hulud sẽ có nó." Mụ nhấc một cánh tay gầy như que củi nâu lên rồi hạ xuống.
Cảm thấy cái nghi lễ này đang xích gần lại quanh nàng với một dòng chảy cuốn phăng nàng ra khỏi mọi ngả thoái lui, Jessica ngoảnh nhìn khuôn mặt đầy câu hỏi của Paul rồi chuẩn bị mình cho thử thách này.
"Hãy để các thầy quản nước tiến lên, " Chani nói bằng giọng trẻ con thiếu nữ, chỉ với một thoáng rung rung cực nhỏ để lộ sự thiếu tự tin trong đó.
Giờ thì Jessica thấy mình đang ở trong tiêu điểm của mối hiểm nguy, biết sự hiện diện của nó trong hành vi theo dõi sát sao của đám đông, trong nỗi im lặng.
Từ cuối đám đông, một nhóm đàn ông len lỏi qua một lối đi quanh co như rắn mở ra giữa đám đông, tiến tới thành từng cặp. Mỗi cặp mang một túi da nhỏ có lẽ lớn gấp đôi đầu người. Những chiếc túi kêu óc ách nặng nề.
Hai người dẫn đầu ném chiếc túi họ mang xuống dưới chân Chani trên gờ đá rồi lùi lại.
Jessica nhìn chiếc túi, rồi nhìn những người đàn ông. Mũ trùm của họ lật ra sau, để lộ mái tóc dài cột một dải băng phía sau đầu. Những hố mắt đen ngòm của họ nhìn lại nàng chằm chằm không nao núng.
Mùi quế thơm phức từ chiếc túi dậy lên, thoảng bay qua Jessica. Hương dược ư? nàng tự hỏi.
"Có nước không?" Chani hỏi.
Thầy quản nước bên tay trái, một người đàn ông có một lằn sẹo đỏ tía vắt ngang qua sống mũi, gật đầu. "Có nước, thưa Sayyadina, " ông nói, "nhưng chúng ta không uống được."
"Có hạt giống không?" Chani hỏi.
"Có hạt giống, " người đàn ông nói.
Chani quỳ xuống đặt tay lên chiếc túi kêu óc ách. "Cầu phúc cho nước và hạt giống của nước."
Có gì đó quen thuộc trong nghi thức này, và Jessica ngoái lại nhìn Mẹ Chí tôn Ramallo. Cặp mắt mụ già nhắm lại, mụ ngồi gục đầu về phía trước như đang ngủ.
"Sayyadina Jessica, " Chani nói.
Jessica quay lại thì thấy cô gái đang đăm đăm nhìn lên nàng.
"Bà đã nếm nước được ban phúc chưa?" Chani hỏi.
Jessica chưa kịp trả lời thì Chani đã nói: "Không thể có chuyện bà đã nếm nước được ban phúc. Bà là người từ thế giới ngoài và không có đặc quyền."
Một tiếng thở dài xuyên qua đám đông, tiếng áo soàn soạt khiến Jessica sởn tóc gáy.
"Vụ mùa thì lớn mà Ngài tạo thì đã bị tiêu diệt, " Chani nói. Cô bắt đầu tháo sợi dây quấn quanh cái vòi ở miệng chiếc túi kêu óc ách.
Giờ thì Jessica cảm thấy mối hiểm nguy đang sôi sục lên quanh nàng. Nàng liếc sang Paul, thấy cậu đang đắm vào sự huyền bí của nghi lễ và mắt chỉ dán vào Chani.
Nó đã nhìn thấy khoảnh khắc này trong thời gian chưa? Jessica tự hỏi. Nàng đặt một tay lên bụng, nghĩ đến đứa con gái chưa ra đời nằm trong đó mà tự hỏi: Mình có quyền mạo hiểm sinh mạng cả hai mẹ con không?
Chani nâng vòi túi về phía Jessica, nói: "Đây là Nước của Sự sống, thứ nước còn vĩ đại hơn cả nước - Kan, nước làm linh hồn được tự do. Nếu Người là Mẹ Chí tôn, nó sẽ mở vũ trụ ra cho Người. Bây giờ hãy để Shai-hulud phán xét."
Jessica cảm thấy bị giằng xé giữa nghĩa vụ với đứa con chưa chào đời và nghĩa vụ với Paul. Nếu với Paul, nàng biết mình nên cầm lấy miệng vòi ấy mà uống thứ chứa trong túi, nhưng khi nàng cúi người về phía cái vòi chìa ra kia, giác quan báo cho nàng biết về những hiểm nguy của nó.
Cái đựng trong túi có mùi đắng, phảng phất giống nhiều thứ độc dược nàng biết, mà cũng không giống.
"Bà phải uống ngay bây giờ, " Chani nói.
Không thể thối lui được nữa, Jessica tự nhắc mình. Nhưng trong toàn bộ vốn liếng khổ luyện Bene Gesserit của nàng không có một cái gì nàng có thể huy động để giúp mình vượt qua khoảnh khắc này.
Đây là gì? Jessica tự hỏi. Rượu? Hay một thứ thuốc?
Nàng cúi người trên miệng vòi, ngửi thấy mùi quế, rồi nhớ lại cơn say của Duncan Idaho. Rượu hương dược ư? nàng tự hỏi. Nàng cho cái ống truyền nước vào miệng, chỉ hút một ngụm cực nhỏ. Nó có mùi hương dược, hơi cay, hơi tê tê nơi lưỡi.
Chani ấn lên chiếc túi da. Một ngụm to chất lỏng đó trào vào miệng Jessica và chưa kịp tự hút lấy thì nàng đã phải nuốt nó, cố giữ nguyên vẻ bình thản đường hoàng.
"Chấp nhận một ít cái chết thì tệ hơn là chấp nhận bản thân cái chết, " Chani nói. Cô nhìn Jessica chằm chằm, chờ đợi.
Và Jessica nhìn lại, vẫn giữ nguyên cái vòi trong miệng. Nàng nếm vị thứ đựng trong túi kia trong lỗ mũi mình, trong vòm miệng, trong hai má, trong hai mắt - giờ thì nghe ngọt khé.
Mát lạnh.
Một lần nữa, Chani lại cho thứ chất lỏng đó trào vào miệng Jessica.
Ngon.
Jessica nhìn kỹ khuôn mặt Chani - những đường nét nhỏ nhắn linh lợi - nhìn ra dấu ấn của Liet-Kynes ở đó, cho dù Channi chưa đủ lớn để định hình rõ nét.
Đây là một thứ thuốc họ cho ta uống, Jessica tự nhủ.
Nhưng nó không như bất kỳ thứ thuốc nào khác nàng từng biết, dù hồi học ở trường Bene Gesserit nàng đã được cho nếm vị của nhiều thứ thuốc rồi.
Những đường nét của Chani trở nên quá rõ nét, như thể được tô đường viền trong ánh sáng.
Một thứ độc dược.
Im lặng xoáy tròn trùm xuống quanh Jessica. Từng sợi cơ của thân thể nàng chấp nhận sự thực rằng có một cái gì đó sâu xa đã xảy ra với nó. Nàng cảm thấy mình là một hạt bụi có ý thức, nhỏ hơn bất kỳ hạt hạ nguyên tử nào, nhưng lại có khả năng chuyển động và cảm nhận thế giới xung quanh. Như một sự khải ngộ đột ngột - những bức màn che bị đánh bạt đi - nàng nhận ra mình đã trở nên ý thức được về phần khai triển vận động tâm thức của bản thân mình. Nàng là hạt bụi, nhưng không là hạt bụi.
Hang đá vẫn còn đó quanh nàng - những con người. Nàng cảm thấy họ: Paul, Chani, Stilgar, Mẹ Chí tôn Ramallo.
Mẹ Chí tôn!
Ở trường từng có lời đồn đại rằng một số người đã không qua được thử thách của Mẹ Chí tôn, độc dược đã lấy mạng họ.
Jessica tập trung chú ý vào Mẹ Chí tôn Ramallo, giờ đây nàng ý thức rằng toàn bộ điều này đang xảy ra trong một khoảnh khắc thời gian đông cứng lại - khoảnh thời gian tạm ngừng, cho riêng nàng thôi.
Sao thời gian lại bị tạm ngừng? nàng tự hỏi. Nàng nhìn chăm chăm vào những nét mặt đông cứng quanh mình, thấy một hạt bụi lửng lơ trên đầu Chani, dừng lại ở đó.
Chờ đợi.
Câu trả lời về khoảnh khắc này chợt nổ bùng ra trong ý thức nàng: thời gian của chính nàng được ngưng lại để cứu mạng nàng.
Nàng tập trung vào phần khai triển vận động tâm thức của bản thân mình, nhìn vào bên trong, và lập tức đương đầu với một lõi tế bào, một cái hố đen ngòm khiến nàng chùn lại.
Đó là nơi chúng ta không thể nhìn vào, nàng nghĩ. Đó là nơi mà các Mẹ Chí tôn ngần ngại không muốn nhắc tên đến thế nơi mà duy một mình Kwisatz Haderach có thể nhìn.
Nhận thức này khiến nàng tự tin trở lại một chút, và một lần nữa nàng đánh liều tập trung vào phần khai triển vận động tâm thức, trở thành một hạt bụi cái tôi tìm kiếm mối hiểm nguy trong mình.
Nàng thấy nó trong thứ thuốc nàng vừa nuốt.
Thứ thuốc đó là những phần tử nhảy múa bên trong nàng, chuyển động của nó nhanh đến nỗi ngay cả thời gian đóng băng cũng không thể buộc chúng dừng lại. Những phần tử nhảy múa. Nàng bắt đầu nhận ra những cấu trúc quen thuộc, những liên kết nguyên tử: đây là một nguyên tử các bon, kia là nguyên tử hê li dao động... một phân tử glucozơ. Cả một chuỗi phân tử đối mặt với nàng, và nàng nhận ra một protein... một cấu trúc protein metyl.
À à à à!
Đó là một tiếng thở dài vô thanh trong nàng khi nàng nhìn ra bản chất của thứ thuốc độc này.
Với khả năng thăm dò bằng vận động tâm thức, nàng dấn vào bên trong nó, di chuyển một hạt bụi ô xy, gắn một hạt bụi các bon khác vào, lắp ghép lại một liên kết ô xy... hy đrô.
Sự thay đổi lan ra... càng lúc càng nhanh khi phản ứng xúc tác mở ra diện tiếp xúc của nó.
Sự ngưng đọng thời gian đã buông lơi nàng ra, và nàng lại cảm thấy sự chuyển động. Ống vòi gắn với chiếc túi đang chạm vào miệng nàng - nhè nhẹ, thu thập một giọt hơi ẩm.
Chani đang lấy chất xúc tác từ cơ thể mình để chuyển hóa độc dược trong chiếc túi, Jessica nghĩ. Tại sao?
Ai đó giúp nàng chuyển sang tư thế ngồi cho thoải mái. Nàng thấy Mẹ Chí tôn Ramallo già nua được đưa tới ngồi cạnh nàng trên gờ đá trải thảm. Một bàn tay khô héo chạm vào cổ nàng.
Và lại có một hạt bụi vận động tâm thức khác bên trong ý thức nàng! Jessica cố cự tuyệt nó, nhưng hạt bụi cứ tiến lại gần... gần nữa.
Nàng và nó chạm nhau!
Nó như một thể đồng khí đồng tâm tối hậu, là hai người cùng một lúc: không phải là thần giao cách cảm, mà là ý thức tương thông.
Với bà Mẹ Chí tôn già!
Nhưng Jessica nhận thấy Mẹ Chí tôn không coi mình là già. Một hình ảnh mở ra trước con mắt của tâm thức tương thông: một cô thiếu nữ tinh thần phấn chấn và hóm hỉnh dịu dàng.
Bên trong ý thức tương thông này, cô thiếu nữ nói: "Phải, ta là thế này đây!"
Jessica chỉ có thể tiếp nhận lời đó mà không thể trả lời.
"Chẳng bao lâu nữa ngươi sẽ có tất cả, Jessica ạ, " hình ảnh nội tâm nói.
Đây là ảo giác, Jessica tự nhủ.
"Ngươi biết rõ mà, " hình ảnh nội tâm nói. "Ngay bây giờ, đừng đánh lại ta. Không có nhiều thời gian đâu. Chúng ta..." Có một quãng lặng dài, rồi: "Đáng lẽ ngươi phải bảo chúng ta rằng ngươi đang có thai!"
Jessica tìm ra giọng nói cất lên trong cõi ý thức tương thông. "Tại sao?"
"Điều này thử thách cả hai ngươi! Ôi Mẹ Thiêng liêng, chúng ta đã làm gì vậy?"
Jessica cảm thấy một sự dịch chuyển do bị ép buộc trong ý thức tương thông, sau đó bằng con mắt nội tâm nàng thấy một hạt bụi thực thể khác. Hạt bụi khác này lao như chớp, loạn xạ thoắt đây thoắt đó, lượn vòng. Nó toát ra sự kinh hoàng thuần túy.
"Ngươi cần phải mạnh mẽ, " hình ảnh thực thể của Mẹ Chí tôn già nói. "Hãy biết ơn vì đứa con ngươi đang cưu mang là con gái. Nếu là phôi nam giới thì thử thách này đã giết nó rồi. Giờ thì... cẩn thận, nhẹ nhàng... hãy chạm vào đứa con gái thực thể của ngươi. Hãy là con gái thực thể của ngươi. Hãy hấp thu nỗi sợ... xoa dịu dỗ dành... dùng lòng can đảm và sức mạnh của ngươi... nhẹ nhàng thôi... thật nhẹ..."
Hạt bụi xoay tít kia lướt lại gần, và Jessica cố buộc mình chạm vào nó.
Nỗi kinh hoàng đe dọa chiếm lĩnh nàng.
Nàng chống lại nó bằng cách duy nhất mà nàng biết: "Ta sẽ không sợ. Sợ hãi giết chết tâm trí..."
Lời cầu nguyện mang lại cái gì đó giống như bình tĩnh. Hạt bụi kia nằm im lìm áp vào nàng.
Ngôn từ không có tác dụng, Jessica tự nhủ.
Nàng tự thu mình thành những phản ứng cảm xúc cơ bản, phát ra tình yêu thương, niềm an ủi, sự vỗ về bảo vệ ấm áp.
Nỗi kinh hoàng thoái lui.
Một lần nữa, sự hiện diện của Mẹ Chí tôn già vẫn tự khẳng định mình, nhưng giờ đây có tới ba ý thức tương thông - hai chủ động và một nằm yên, hấp thụ.
"Thời gian thúc bách ta, " Mẹ Chí tôn nói bên trong ý thức. "Ta có nhiều thứ để trao cho ngươi. Ta không biết liệu con gái ngươi có thể thụ nhận tất cả những thứ này trong lúc vẫn tỉnh táo không. Nhưng nhất thiết phải vậy: nhu cầu của bộ tộc là quá lớn."
"Cái gì..."
"Im lặng thụ nhận đi!"
Những trải nghiệm bắt đầu trải ra trước mắt Jessica. Nó như một đoạn phim thuyết trình được phát bằng máy chiếu đào tạo tiềm thức ở trường Bene Gesserit... nhưng nhanh hơn... nhanh hơn đến chóng mặt.
Nhưng... rất khác.
Nàng nhận biết mỗi trải nghiệm đó trong khi nó diễn ra: có một người yêu - cường tráng, râu rậm, với đôi mắt Fremen, và Jessica thấy sức mạnh cùng sự dịu dàng của anh, thấy toàn thể con người anh trong một nháy mắt, thông qua ký ức của Mẹ Chí tôn.
Giờ thì không có thời gian để nghĩ đến chuyện điều này có thể gây ra cái gì cho phôi thai của đứa con; chỉ có thời gian để thụ nhận và ghi lại. Những trải nghiệm tuôn ào ạt vào trong Jessica - sự sinh thành, cuộc sống, cái chết - những việc quan trọng và không quan trọng, tất cả tuôn ra trong một lần nhìn duy nhất.
Tại sao một dải cát rơi từ đỉnh vách đá cũng phải in sâu vào ký ức? nàng tự hỏi.
Đã quá muộn, Jessica nhận thấy điều gì đang xảy ra: bà lão đang hấp hối và, trong cơn hấp hối, đang trút hết các kinh nghiệm của mình vào ý thức Jessica như trút nước vào trong cốc. Hạt bụi kia mờ lịm dần vào ý thức trước lúc ra đời trong khi Jessica quan sát nó. Và, giữa khi hấp hối trong ý niệm, Mẹ Chí tôn già để lại cuộc đời mình trong ký ức Jessica với những lời lắp bắp cuối cùng qua tiếng thở dài.
"Ta đã đợi ngươi từ quá lâu rồi, " bà nói. "Cuộc đời ta đây."
Vậy đó, một lời thâu tóm tất cả.
Kể cả khoảnh khắc của cái chết.
Giờ đây ta là Mẹ Chí tôn, Jessica nhận ra.
Và bằng ý thức thông thường, nàng biết rằng thật ra nàng đã trở thành chính kẻ mà người ta vẫn thường hàm ý khi dùng chữ Mẹ Chí tôn Bene Gesserit. Độc dược đã khiến nàng chuyển hóa.
Đây không hẳn là cách người ta đã làm ở trường Bene Gesserit, nàng biết. Chưa ai từng truyền dạy cho nàng những bí ẩn của nó, nhưng nàng biết.
Kết quả cuối cùng là một.
Jessica cảm thấy hạt bụi đứa con gái vẫn đang chạm vào ý thức nội tại của nàng bèn thăm dò nó nhưng không được đáp lại.
Một cảm giác cô đơn khủng khiếp choán lấy Jessica khi nàng nhận ra điều gì đã xảy ra với nàng. Nàng thấy sự sống của chính mình như một mẫu hình đã bị ghìm chậm lại còn toàn bộ sự sống quanh nàng thì tăng tốc nhanh đến nỗi sự tác động lẫn nhau như nhảy múa kia càng rõ rệt hơn.
Cảm giác về hạt bụi ý thức hơi mờ nhạt đi, độ mãnh liệt của nó dịu đi khi cơ thể nàng lơi dần khỏi mối đe dọa của độc dược, nhưng nàng vẫn cảm thấy cái hạt bụi kia, trong khi chạm vào nó với cảm giác có lỗi vì những gì nàng đã cho phép xảy ra với nó.
Mẹ đã làm điều đó, con gái yêu dấu, bé bỏng tội nghiệp, chưa thành hình của mẹ, mẹ đã mang con vào vũ trụ này và phơi trần ý thức của con dưới tất cả sự phức tạp của vũ trụ mà không có gì bảo vệ.
Như phản xạ của những gì nàng đã tuôn vào nó, một dòng nhỏ bé của tình yêu thương an ủi từ phía hạt bụi kia tuôn chảy vào nàng.
Jessica chưa kịp đáp lại thì đã cảm thấy sự hiện diện của adab, cái ký ức nghiệt ngã. Có cái gì đó cần phải làm. Nàng mò mẫm tìm nó, đồng thời nhận ra mình đang bị cản trở do thuốc đã chuyển hóa thấm đẫm các giác quan khiến nàng mụ mẫm.
Mình có thể chuyển hóa điều đó, nàng nghĩ. Mình có thể triệt tiêu tác dụng của thuốc và làm nó trở nên vô hại. Nhưng nàng cảm thấy làm vậy thì sẽ sai lầm. Mình đang ở trong nghi thức kết nối.
Rồi nàng nhận ra mình phải làm gì.
Jessica mở mắt, ra hiệu về phía chiếc túi nước mà Chani đang giữ phía trên nàng.
"Nó đã được ban phúc, " Jessica nói. "Hãy trộn các thứ nước vào nhau, để cho tất cả đều thay đổi, sao cho mọi người đều có thể tham gia và được dự phần ân phúc."
Hãy để chất xúc tác làm việc của nó, nàng nghĩ. Cứ để người ta uống nó, để nhận thức của họ về nhau được nâng cao lên trong chốc lát. Giờ thì thuốc an toàn rồi... khi đã có một Mẹ Chí tôn chuyển hóa nó.
Thế nhưng, cái ký ức nghiệt ngã kia vẫn tác động lên nàng, thúc đẩy nàng. Nàng nhận ra còn một việc nữa phải làm, nhưng thuốc khiến nàng khó tập trung.
À... Mẹ Chí tôn già...
"Ta đã gặp Mẹ Chí tôn Ramallo, " Jessica nói. "Bà đã ra đi, nhưng bà vẫn còn đó. Hãy tôn vinh ký ức về bà trong nghi lễ này."
Thế đấy, mình lấy đâu ra những lời đó vậy? Jessica tự hỏi.
Và nàng nhận ra những lời đó đến từ một ký ức khác, từ cái cuộc đời đã được trao cho nàng và giờ đây là một phần của chính nàng. Tuy nhiên, trong món quà này hình như có gì đó chưa trọn vẹn.
"Cứ để họ mặc sức truy hoan, " cái ký ức khác kia nói bên trong nàng. "Họ được hưởng quá ít lạc thú từ cuộc sống. Phải, ta và ngươi cần chút ít thời gian này để quen dần trước khi ta rút lui và tuôn chảy thông qua các ký ức của ngươi. Hiện giờ ta đã cảm thấy ta đang bị gắn liền với nhiều mảnh của ngươi rồi. Ái chà chà, ngươi có một tâm trí đầy những điều thú vị. Quá nhiều điều mà ta chẳng bao giờ tưởng tượng ra."
Và cái tâm trí ký ức gói gọn bên trong nàng tự mở ra cho Jessica, cho phép nàng nhìn thấy một hành lang rộng thênh thang dẫn tới những Mẹ Chí tôn khác cho tới khi con số các Mẹ này dường như vô tận.
Jessica thụt lùi lại, sợ mình sẽ mất hút trong một đại dương của cái đồng nhất thể. Thế nhưng cái hành lang vẫn còn nguyên đó, để lộ cho Jessica thấy rằng nền văn hóa Fremen lâu đời hơn nàng tưởng nhiều.
Nàng nhận ra từng có người Fremen ở Poritrin, một dân tộc đã đâm ra yếu đuối vì sống trên một hành tinh nơi cuộc sống quá dễ dàng, làm mồi ngon cho bọn kẻ cướp của Đế quốc đến vơ vét mang đi để thành lập thuộc địa của loài người trên Bela Tegeuse và Salusa Secundus.
Ôi, cái tiếng than van mà Jessica cảm thấy trong sự chia ly đó.
Xa mãi cuối hành lang, một giọng nói hình ảnh thét lên: "Họ không cho chúng ta thực hiện chuyến đi thần thánh!"
Dọc theo cái hành lang nội tại đó, Jessica nhìn thấy những khu nhà ổ chuột của nô lệ trên Bela Tegeuse, nhìn thấy cuộc thanh lọc và lựa chọn đã khiến người ta phải phân tán lên Rossak và Harmonthep. Những cảnh dã man tàn bạo mở ra trước mắt nàng như cánh của một đóa hoa kinh khủng. Và nàng thấy sợi dây quá khứ được mang hết từ Sayyadina này đến Sayyadina khác - đầu tiên qua truyền miệng, ẩn giấu trong những bài hò trên cát, rồi được tinh lọc thông qua các Mẹ Chí tôn của họ cùng với sự phát hiện ra độc dược trên Rossak... và giờ đây phát triển thành sức mạnh tinh vi trên Arrakis nhờ phát hiện ra Nước của Sự sống.
Mãi xa cuối hành lang nội tại, một giọng khác thét: "Không bao giờ tha thứ! Không bao giờ quên!"
Nhưng Jessica tập trung chú ý vào việc khám phá Nước của Sự sống, nhìn thấy nguồn của nó: chất thải lỏng của một con sâu cát, một Ngài tạo, đang hấp hối. Và khi Jessica thấy người ta giết nó trong ký ức mới của nàng, nàng nén một tiếng thở hổn hển.
Con vật đang bị trấn nước!
"Mẹ à, mẹ ổn chứ?"
Giọng Paul xâm nhập vào nàng, và Jessica giằng mình ra khỏi nhận thức nội tại để ngước lên nhìn cậu, ý thức được nghĩa vụ của mình với cậu, nhưng bực tức vì sự có mặt của cậu.
Ta như một người mãi tê liệt đôi tay, không hề cảm thấy gì ngay từ khoảnh khắc đầu tiên ta biết nhận thức - cho đến một ngày kia người ta dồn ép cái khả năng cảm nhận đó vào trong chúng.
Ý nghĩ đó lơ lửng trong tâm trí nàng, một nhận thức đang bao bọc lấy nàng.
Và ta nói: "Nhìn kìa! Mình không có tay!" Nhưng mọi người quanh ta thì nói: "Tay là cái gì?"
"Mẹ ổn chứ?" Paul lặp lại.
"Ừ."
"Con uống cái đó có sao không?" Cậu ra hiệu về phía chiếc túi trong tay Chani. "Người ta muốn con uống."
Nàng nghe thấy ý nghĩa ẩn giấu trong lời cậu, nhận ra cậu đã phát hiện được độc dược trong thứ tinh chất nguyên thủy, chưa chuyển hóa, rằng cậu đã lo cho nàng. Bỗng dưng Jessica tự hỏi giới hạn khả năng tiên tri của Paul là ở đâu. Câu hỏi của cậu làm bộc lộ nhiều điều đối với nàng.
"Con uống được, " nàng nói. "Nó đã được chuyển hóa." Và nàng nhìn ra sau lưng cậu, thấy Stilgar đang nhìn nàng chòng chọc, cặp mắt quá ư là thẫm đang dò xét.
"Giờ thì chúng tôi biết bà không thể là kẻ giả mạo, " ông nói.
Cả ở đây nàng cũng cảm nhận được ý nghĩa ẩn giấu, nhưng tác dụng của thuốc vẫn đang làm các giác quan của nàng mụ mị. Ấm áp xiết bao, êm dịu xiết bao. Phúc đức làm sao vì những người Fremen này đã đưa nàng vào giữa những con người đầy lòng ái hữu đến thế này.
Paul nhận thấy thuốc đang chế ngự mẹ cậu.
Cậu tìm kiếm trong ký ức mình - quá khứ định hình, những dòng chảy của các tương lai có thể xảy ra. Giống như là quét qua những khoảnh khắc thời gian bị tóm giữ, gây hoang mang cho thủy tinh thể của con mắt nội tâm. Những mẩu rời rạc ấy thật khó lòng hiểu được nếu bị tách khỏi dòng chảy.
Thứ độc dược này - cậu có thể huy động tri thức về nó, hiểu được nó đang làm gì với mẹ cậu, nhưng cái tri thức đó thiếu một nhịp điệu tự nhiên, thiếu một hệ thống phản xạ hỗ tương.
Cậu bất ngờ nhận ra nhìn thấy quá khứ chiếm lĩnh hiện tại là một chuyện, nhưng thử thách đích thực đối với năng lực tiên tri là nhìn thấy quá khứ trong tương lai.
Sự vật khăng khăng không chịu là cái mà ta nghĩ dựa theo vẻ ngoài của nó.
"Uống đi, " Chani nói. Cô vung vẩy cái vòi sừng của một túi nước dưới mũi cậu.
Paul thẳng người lên, nhìn chằm chằm vào Chani. Cậu cảm thấy sự hưng phấn kiểu hội hè trong không khí. Cậu biết điều gì sẽ xảy ra nếu cậu uống thứ thuốc hương dược này, với phần tinh túy của cái chất đã mang lại sự chuyển hóa trong cậu. Cậu sẽ quay lại cái thị kiến về thời gian thuần khiết, về thời gian trở thành không gian. Nó sẽ đặt cậu ngồi chót vót trên đỉnh cao chóng mặt và thách thức cậu hiểu được nó.
Từ sau lưng Chani, Stilgar nói: "Uống đi, chàng trai. Anh đang trì hoãn nghi lễ đấy."
Khi đó Paul lắng tai về phía đám đông, nghe thấy sự cuồng nhiệt trong giọng họ - "Lisan al-Gaib, " họ nói. "Muad'Dib!" Cậu nhìn xuống mẹ. Bà có vẻ đang ngủ yên lành trong tư thế ngồi - hơi thở bà đều và sâu. Một lời nói từ tương lai vốn là quá khứ cô độc của cậu vẳng vào tâm trí cậu: "Bà đang ngủ trong Nước của Sự sống."
Chani kéo tay áo cậu.
Paul đưa cái vòi sừng vào miệng, nghe tiếng mọi người gào thét. Cậu cảm thấy chất lỏng chảy ùng ục vào cổ họng trong khi Chani ấn lên chiếc túi, cảm thấy choáng váng trong hơi thuốc. Chani nhấc vòi khỏi miệng Paul, trao chiếc túi cho những bàn tay chìa ra từ dưới nền hang. Mắt cậu xoáy vào cánh tay cô, dải băng tang màu xanh lục đeo ở đó.
Khi đứng thẳng lên, Chani nhận thấy hướng nhìn của cậu, liền nói: "Em có thể than khóc cha ngay cả trong niềm hạnh phúc của nước. Đó là một thứ Người đã ban cho chúng ta." Cô đặt tay vào tay cậu, kéo cậu dọc theo gờ đá. "Chúng ta giống nhau ở một điều, Usul ạ: Mỗi chúng ta đều mất một người cha vào tay bọn Harkonnen."
Paul đi theo cô. Cậu cảm thấy đầu mình đã bị tách khỏi cơ thể rồi được đặt lại chỗ cũ với những mối liên kết kỳ lạ. Chân cậu vừa xa xăm vừa mềm oặt.
Họ bước vào một hành lang hẹp bên đường, hai vách được những quả đèn cầu cách quãng nhau soi sáng lờ mờ. Paul cảm thấy thuốc bắt đầu phát huy cái tác dụng độc nhất vô nhị của nó lên cậu, mở thời gian ra như một đóa hoa. Cậu cảm thấy cần phải giữ cho mình vững vàng trước Chani trong khi hai người rẽ qua một đường hầm tranh tối tranh sáng khác. Sự hòa hợp giữa rắn rỏi và mềm mại mà cậu cảm thấy dưới lớp áo cô mặc làm máu cậu râm ran. Cái cảm giác đó quyện với tác dụng của thuốc, gộp tương lai và quá khứ vào hiện tại, chỉ dành lại cho cậu vùng biên cực mảnh của tiêu điểm tam nhãn thức.
"Tôi biết em, Chani ạ, " cậu thì thầm. "Chúng ta đã ngồi trên một gờ đá vươn cao trên cát, lúc đó tôi đang trấn an nỗi sợ của em. Chúng ta đã âu yếm nhau trong bóng tối của sietch. Chúng ta đã..." Cậu thấy mình đang đánh mất tiêu điểm, cố lắc đầu, rồi bị vấp chân.
Chani giúp cậu lấy lại thăng bằng, dẫn cậu đi qua những tấm rèm dày vào một gian phòng riêng ấm áp màu vàng - những chiếc bàn thấp, những chiếc gối tựa, một cái nệm ngủ bên dưới tấm khăn trải giường màu cam.
Paul dần nhận ra rằng họ đã dừng lại, rằng Chani đang đứng đối diện cậu, và mắt cô bộc lộ một cái nhìn hoảng hốt câm lặng.
"Anh phải cho em biết, " cô thì thầm.
"Em là Sihaya, " cậu nói, "con suối trong sa mạc."
"Khi bộ tộc chia nhau Nước, chúng ta ở bên nhau - tất cả chúng ta, " cô nói. "Chúng ta... chia sẻ. Em... cảm thấy được những người khác ở bên em, nhưng em sợ chia sẻ với anh."
"Tại sao?"
Cậu cố tập trung vào cô, nhưng quá khứ và tương lai đang nhập làm một với hiện tại khiến hình ảnh cô mờ đi. Cậu thấy cô trong vô vàn cách, vô vàn tư thế và bối cảnh.
"Có cái gì đó đáng sợ ở anh, " cô nói. "Khi em tách anh ra khỏi những người khác... em làm vậy là bởi em cảm thấy được những người khác muốn gì. Anh gây sức ép lên mọi người. Anh... khiến dân của em nhìn thấy sự vật!"
Cậu buộc mình nói thật rõ ràng: "Em thấy những gì?"
Cô nhìn xuống hai bàn tay mình. "Em thấy một đứa bé... trong tay em. Nó là con của chúng ta, của anh và em." Cô đặt một tay lên miệng. "Làm sao em có thể biết hết mọi điều của anh được?"
Họ có một ít cái năng lực đó, tâm trí mách bảo cậu. Nhưng họ đè nén nó bởi nó làm họ sợ.
Trong một khoảnh khắc tỉnh táo, cậu thấy Chani đang run rẩy.
"Em muốn nói gì?" cậu hỏi.
"Usul, " cô thì thầm, vẫn còn run rẩy.
"Em không thể quay trở lại tương lai được, " cậu nói.
Một nỗi cảm thông sâu xa tràn ngập lòng cậu. Cậu kéo cô vào lòng, vuốt tóc cô. "Chani, Chani ơi, đừng sợ."
"Usul ơi, giúp em với, " cô bật khóc.
Trong khi cô nói, cậu cảm thấy thuốc đã hoàn thành công việc của nó bên trong cậu, xé toang những tấm rèm để cho cậu thấy vùng rối loạn xám xịt phía xa xăm của tương lai mình.
"Anh trầm lặng quá, " Chani nói.
Cậu giữ cho mình cân bằng trong nhận thức, nhìn thời gian trải dài ra trong kích thước khác thường của nó, cân bằng một cách tinh tế nhưng xoay tít, chật hẹp nhưng trải rộng như một tấm lưới thâu tóm vô số thế giới và vô số lực, một sợi dây căng mà cậu phải đi qua, nhưng cũng là một chiếc ván bập bênh mà trên đó cậu giữ được thăng bằng.
Ở một phía cậu nhìn thấy Đế quốc, một người Harkonnen tên là Feyd-Rautha, kẻ này lao vút về phía cậu như một lưỡi dao chết chóc, quân Sardaukar hùng hổ rời hành tinh của chúng để làm cỏ Arrakis, Hiệp hội thông đồng tính kế bày mưu, Bene Gesserit với mưu đồ gây giống có chọn lọc của mình. Tất cả nằm đó dày đặc như một khối mây đen sừng sững trên đường chân trời của cậu, khối mây đó chỉ được ghìm lại không bởi ai khác ngoài người Fremen và Muad'Dib của họ, cái khối Fremen khổng lồ còn say ngủ nhưng trong tư thế sẵn sàng cho cuộc thánh chiến cuồng dại trên khắp cùng vũ trụ.
Paul cảm thấy mình ở ngay tâm điểm, ngay trục giữa nơi toàn bộ cái cơ cấu đó xoay quanh, bước trên một sợi dây bình an mỏng manh chỉ với một phần nhỏ hạnh phúc là Chani ở bên cậu. Cậu cảm thấy sợi dây đó căng dài trước mặt, một khoảng thời gian tương đối êm ả trong một sietch kín đáo, một khoảnh khắc bình an giữa hai thời kỳ khốc liệt.
"Chẳng có nơi nào khác cho sự bình an, " cậu nói.
"Usul, anh đang khóc kìa, " Chani lẩm bẩm. "Usul, sức mạnh của em, anh trao hơi ẩm cho người chết sao? Cho người chết của ai?"
"Cho những người chưa chết, " cậu nói.
"Thế thì hãy cho họ có thời gian để sống, " cô nói.
Qua làn sương mù do thuốc, cậu cảm thấy cô nói đúng, liền kéo cô vào lòng, siết chặt một cách dữ dội. "Sihaya!" cậu nói.
Cô đặt một bàn tay lên má cậu. "Em không còn sợ nữa. Usul ơi. Nhìn em này. Em thấy được những gì anh thấy khi anh ôm em như thế này."
"Em thấy gì?" cậu hỏi.
"Em thấy chúng ta trao tình yêu cho nhau trong một khoảng thanh bình giữa hai cơn bão. Chúng ta sinh ra là để làm như vậy."
Thuốc lại chi phối cậu và cậu nghĩ: Quá nhiều lần em đã cho ta niềm an ủi và sự lãng quên. Cậu lại cảm thấy cảnh tượng thời gian được soi sáng quá tràn trề với những hình ảnh nổi rõ mồn một đó, cảm thấy những tương lai của mình trở thành ký ức - những sỉ nhục tinh tế của tình yêu xác thịt, sự chia sẻ và đồng cảm giữa những cái tôi, sự dịu dàng và sự dữ dội.
"Em là người mạnh mẽ, Chani ạ, " cậu lẩm bẩm. "Hãy ở bên anh."
"Luôn luôn ở bên anh, " cô nói, rồi hôn lên má cậu.
Bạn cần đăng nhập để bình luận